Từ Trong Cõi đến Chuyện Ở Sân Sau
Mới đây, ông Hồ Sĩ Sênh một thành viên trong giòng tộc họ Hồ thuộc thế hệ thứ 4, cũng là hội viên của Hội Văn nghệ Nghệ An với bút hiệu là Trường Lam mà theo gia phả thì ông gọi ông Hồ bằng bác họ đã phổ biến một tài liệu do chính ông biên soạn thuộc dạng bút ký với nhan đề “Chuyện ở sân sau”, kể về cuộc đời của cử nhân Hồ Sĩ Tạo, bà Hà thị Hy, ông Nguyễn Sinh Sắc, bà Hoàng thị Loan, ông Hồ cũng như những hậu duệ thuộc thế hệ thứ 4.
Bài ký này được viết ở Trại viết văn của Hội Văn nghệ Nghệ An vào đầu năm 2007, đã được Hội Văn nghệ này đánh giá cao và đã được phổ biến nội bộ như đọc công khai để các trại viên tham khảo, Tuy nhiên, vì là chuyện “tabu” nên không một báo nào trong nước được phép đăng tải. Theo Talawas, tác giả Trường Lam đã đồng ý cho phổ biến bài bút ký này trên diễn đàn của mình.
Trước đây, năm 1993 nhà sử học Trần Quốc Vượng, một sử gia uy tín của VN lúc bấy giờ đã cho xuất bản tại Hoa kỳ quyển sách Trong Cõi, cũng đã tiết lộ những lời truyền miệng dân gian về thân thế của ông Hồ, trong đó có đề cập, phân tích và lý giải một cách hệ thống, có sức thuyết phục về sự thật của 3 thế hệ tiếp nối nhau mà ông Hồ là thế hệ thứ 3. Tuy nhiên phần chi tiết “giây mơ rễ má” của giòng tộc họ Hồ thì tài liệu bút ký mà ông Hồ Sĩ Sênh vừa phổ biến có phần sung túc hơn.
Những nhân vật chính được sử gia Trần Quốc Vượng đề cập đến cũng không ngoài những nhân vật mà ông Hồ Sĩ Sênh vừa phổ biến trong tập bút ký của mình. Cũng bao gồm ông nội, bà nội, cha và mẹ của ông Hồ như: Cụ cử nhân Hồ Sĩ Tạo, cô đèn Hà Thị Hy, người mang họ Nguyễn bất đắc dĩ ông Nguyễn Sinh Sắc, bà Hoàng Thị Loan và tất nhiên có cả ông Hồ.
Ai muốn viết khách quan và trung thực về ông Hồ cũng phải lường trước được những dữ kiện phải gặp không mấy thuận lợi cho công trình biên soạn, đó chính là sự phức tạp về tên tuổi, ngày sinh, ngày mất cũng như những hoạt động bí mật ẩn hiện mang cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của nhân vật lịch sử này.Cho dù ở hoàn cảnh nào ông Hồ cũng không bao giờ đề cập bất cứ vấn đề gì có liên quan đến xuất xứ của mình, với nhiều bộ mặt ông Hồ đã trở thành một nhân vật hoạt động chính trị được xếp vào dạng khó hiểu trong các nhà hoạt động chính trị, chẳng những so với VN mà còn so với cả thế giới. Ông chẳng khác nào một gã thợ săn thiện nghệ, săn thú hàng ngày nhưng không sử dụng giấy phép đang lúc hành nghề ở vào thời đại mà buộc người thợ săn nào cũng phải có giấy phép. Ông đã áp dụng luật “rừng xanh” hơi bị nhiều trong suốt quãng đời hoạt động chính trị của ông, ông cũng chẳng khác nào một nhân vật sân khấu với tài nhập vai điêu luyện khi bức màng nhung đang mở, dang khép hờ và ngay cả lúc khép lại để rồi đối với khán giả phía hậu trường là những dấu ngoặc cùng nhiều dấu hỏi to tướng. Xa hơn, ông còn là một người hành nghề gián điệp chuyên nghiệp, hơn 20 năm lăn lộn trong nghề (1924–1944), ông đã được huấn luyện làm gián điệp có phương pháp, có kỹ thuật với giấy thông hành của Liên Xô, ông ăn lương, lãnh trợ cấp từ Liên Xô và được giao nhiệm vụ hoạt động tại Trung Quốc ở vào giai đoạn lịch sử đầy biến loạn và bạo động của vùng địa lý này.
Chuyện ông Hồ xuất thân từ trường Stalin mới đây được thư khố Nga giải mật, dù rằng tài liệu Đảng vẫn khư khư dấu kín, đã tiết lộ là hầu hết cán bộ cấp cao của đảng CSVN, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, đều xuất thân từ trường này. Đây là một lò huấn luyện được Lenin thành lập ngày 21/04/1921 dưới tên gọi là Viện Phương Đông nhằm huấn luyện và xuất khẩu các cán bộ cộng sản gốc Á Châu sau khi tốt nghiệp được tung về nước hoạt động. Những học viên sẽ trở thành cán bộ nòng cốt của cách mạng vô sản với nhiệm vụ móc nối, tuyên truyền và thu thập tin tức từ quần chúng. Tháng 8, 1924 ông Hồ được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản giao cho chức vụ “Uỷ Viên Ban Phương Đông”, phụ trách Cục Phương Nam coi toàn vùng Đông Nam Á. Để che mắt mật thám Tây Phương, ông Hồ trở thành “Lou” đặc phái viên của hãng Thông Tấn Nga Rosta, rồi làm thư ký, thông ngôn cho phái đoàn Borodin của Liên Xô, tại Quảng Châu, qua bí danh Lý Thụy.
Vâng, chính ông Hồ đã can thiệp thô bạo vào sự lẫn lộn đầy xáo trộn về bản thân mình để rồi làm cho người viết sử chân chính cứ phải ấm ớ bất an mỗi khi đề cập đến tiểu sử của ông.
Có điều, không ai phủ nhận ông Hồ Chí Minh là người có tài nhưng người ta cũng không phủ nhận ông là người thiếu vắng tư cách và đạo đức của một nhân vật lãnh đạo đất nước chân chính, ngoại trừ đảng CSVN và những người ủng hộ đảng này.
Là một điệp viên nặng ký của đảng CS quốc tế được tung về hoạt động tại một nước đầy biến loạn với nhiều rủi ro thách thức và ông đã thành công ở lãnh vực này. Đây là cái tài nghề nghiệp của ông, ông cũng là người sáng dạ đột xuất trong việc bắt chước với nhiều mưu mẹo… ông còn có thêm một cái tài rất quan trọng cho sự nghiệp chính trị, đó là cái tài biết sử dụng nhuần nhuyễn hai châm ngôn “dụng nhân như dụng mộc” và “lạt mềm buộc chặt” đối với bất cứ đối tượng nào, ngay cả với kẽ thù. Ông không thành thật và luôn nghi ngờ, có lẽ do bệnh nghề nghiệp chăng?
Tham vọng là một lãnh tụ, với đảng CSVN ông đã đem hết sở tài làm sở dụng và đã hành xử như một loại “bố già” theo nghĩa bóng trong hoạt động chính trị của mình. Để đưa chủ nghĩa CS vào VN ông đã không đường đường chính chính dắt nó vào cửa trước mà đã phải lấm lét cùng nó lẻn vào cửa sau dưới chiêu bài mị dân độc lập dân tộc. Trong bài viết “Ðánh Giá Di Sản Ông Hồ Chí Minh Qua Hiện Tình Ðất Nước” của Luật Sư Đào Tăng Dực có viết như sau:
“Trước hết, từ ngày 08/09/1941 ông Hồ đã sớm nhận ra chiêu bài cộng sản không được toàn dân ủng hộ. Muốn sống còn thì cần phải đội lốt quốc gia một cách khéo léo. Chính vì thế vào ngày này ông cho ra đời Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội dưới chiêu bài là một mặt trận gồm nhiều thành phần kháng Pháp khác nhau nhưng bên trong do CSVN nắm giữ hoàn toàn. Tổ chức này gọi tắt là Phong trào Việt Minh.
Trong khi hàng ngũ các đảng phái quốc gia chia rẽ và thiếu tổ chức chuyên nghiệp thì CSVN xâm nhập mọi tầng lớp xã hội và phát triển cơ sở hạ tầng. Đến tháng 8 năm 1945 khi Nhật Bản đầu hàng Đồng minh thì chính trường Việt Nam bỏ trống. Chính phủ Trần Trọng Kim ngơ ngác. Các đảng phái quốc gia thiếu viễn kiến và chậm tay. Trong khi đó Việt Minh đã cướp thời cơ và cướp luôn chính quyền, buộc Bảo Đại thoái vị”.
Tác giả còn viết tiếp,
Tuy nhiên vào giai đoạn hiểm nguy nhất cho đảng CSVN này (từ 1945 đến 1949), ông Hồ đã chứng tỏ sự lão luyện tuyệt vời của mình. Ông lừa gạt được các chính đảng quốc gia (qua một chính phủ liên hiệp), ký hòa ước Sainteny với người Pháp và lừa luôn cả Tưởng Giới Thạch (để họ Tưởng rút quân về Trung Quốc). Khi họ Mao chiến thắng tại Trung Quốc năm 1949 thì cái chết đã gần kề cho các chính đảng quốc gia (NXH, tr. 65-72).
Vì thế không ai có thể chối cãi tính cách “lão luyện giang hồ” để sống còn và ngự trị trên chính trường của ông Hồ. Tuy nhiên, câu hỏi quan trọng nhất mà lịch sử sẽ nêu ra để đánh giá công lao của ông Hồ đối với dân tộc Việt Nam sẽ vô cùng cụ thể và hoàn toàn không nên căn cứ vào sự lão luyên giang hồ đó: Ông Hồ Chí Minh và đảng CSVN mà ông xây dựng có đem lại độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam như chiêu bài CSVN nêu ra hay không?
Là một cán bộ CS quốc tế, có nhiệm vụ truyền bá chủ nghĩa CS sang các nước Á Châu, kích thích thành phần lao động của các nước nầy sử dụng bạo lực chuyên chính vô sản để nổi loạn, lật đổ và cướp chính quyền. Ông đã đến và rời Trung Quốc nhiều lần và mỗi lần mang một bí danh khác để hoạt động gián điệp trá hình hòng xuất cảng chủ nghĩa CS theo lệnh của CS quốc tế, căn cứ vào tài liệu của Liên Xô, thì ông có đến 19 tên. Ông là hiện thân của mưu mô và thâm hiểm, của sách động và khủng bố, của bạo loạn và cướp chính quyền. Chính bản thân chính trị của “bố già” đã là vậy thì hậu duệ chính trị của “Bố Già” cũng phải là như vậy, đó là điều không lấy gì làm khó hiểu. Từ Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Đỗ Mười trước đây cho đến Võ Văn Kiệt, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Tấn Dũng hiện tại.
Xa hơn, do ảnh hưởng cuộc sống, là một đứa trẻ bất hạnh, không được nuôi nấng và dưỡng dục trong tình yêu thương trọn vẹn của một mái ấm gia đình, mẹ mất sớm, cha ông, ông Nguyễn Sinh Sắc thì vất vả lăn lộn trên đường hoạn lộ của quan trường. Có lẽ đời măng được đời tre cuối xuống chuyền tay mà vận vào ông chăng? vì chính bà nội của ông cũng là nạn nhân của nó, nỗi bất hạnh ập đến khi bà đang là cô Đèn ngoài 30 tuổi mà không có chồng để rồi cái vòng lễ giáo, cái khuôn mẫu Khổng Mạnh đã là nguyên nhân sâu xa cho nỗi bất hạnh này khi bà có mang với ông cử Hồ Sĩ Tạo.
Ông Hồ đã phải vật lộn với đời rất sớm do bởi nghịch cảnh cùng bi kịch của gia đình như trên đã nói, ông đã phải thôi học nửa chừng cùng với cha bỏ xứ mà “hành phương nam” tha phương cầu thực. Với vốn liếng đèn sách nửa vời, ông chưa nắm bắt được khái niệm thông thường của khoa học thường thức, sau đó phải tự lập để mưu sinh bằng đủ thứ nghề: Phụ bếp dưới tàu, phu quét tuyết trên đường phố Luân Đôn, bồi khách sạn, thợ rửa ảnh để rồi sau đó lăn lộn trong cuộc hành trình chính trị đầy rủi ro và thách thức của mình.
Ông không có ý niệm về một mái ấm gia đình tuy rằng ít nhất trong đời ông có hai trong nhiều người đàn bà từng ăn ngủ với ông như tư cách vợ chồng và có hai người gọi ông bằng bố, nhưng hai người đàn bà đã không được phép gọi ông là chồng cũng như hai người con không được phép nhận ông là cha. Đó là bà Tăng Tuyết Minh, bà Nông Thị Xuân, ông Nông Đức Mạnh và ông Nguyễn Tất Trung. Ông xem thường tình yêu dù rằng hoạt động sinh lý của ông bình thường như bao người, ông không tôn trọng phụ nữ, ông thờ ơ với giòng tộc huyết thống, với làng xưa xóm cũ, với tình yêu dân thương nước chân thật. Đối với ông chỉ sự nghiệp “cách mạng vô sản” là trên hết dù chính ông cũng biết rằng đây là một sự nghiệp đầy máu và nước mắt của dân lành.
Như là một tình cờ, hầu như bất cứ người đàn bà nào có dính dáng tới ông đều là những người đàn bà bất hạnh? Từ Bà Nội, đến mẹ và ngay cả chị ruột của ông cũng vậy, lẽ tất nhiên có cả những người đàn bà dính dáng gối chăn với ông.
Riêng ông Nông Đức Mạnh thì ở phần kết của bài viết “Chuyện ở sân sau” của tác giả Trường Lam đã bóng gió xa gần như là trả lời câu hỏi của một phóng viên báo chí nước ngoài với ông Tổng Bí Thư đảng CSVN Nông Đức Mạnh về một tin đồn trong dân gian rằng ông là con của ông Hồ Chí Minh.
“Tất cả người VN chúng tôi ai không là con là cháu của Bác Hồ” Câu trả lời của ông Nông Đức Mạnh với báo chí phương tây đã làm giàu sức thuyết phục câu ví dân gian “cha nào con nấy” ?
Người khôn ăn nói nửa chừng
Để cho người dại nửa mừng nửa lo
Cũng có thể ông Hồ đã áp dụng câu thơ dân gian truyền miệng này một cách triệt để với dụng tâm làm bùa hộ mạng cho những hoạt động chính trị nhiều ẩn số của mình chăng?
Cuối cùng rồi sự thật cũng phải được tiết lộ mà bài viết mới đây của ông Hồ Sĩ Sênh nếu đem ghép chung với bài viết của sử gia Trần Quốc Vượng thì sự thật về tiểu sử của ông Hồ đã rõ như ban ngày.
Một thời trong dân gian xầm xì cũng như thắc mắc về tên họ của ông Hồ, nghĩa là từ tên Nguyễn Tất Thành cho đến tên Nguyễn Ái Quốc rồi cuối cùng là Hồ Chí Minh? Cái thắc mắc nhất là tại sao ông lấy họ Hồ mà không lấy họ Nguyễn như họ của cha mình? và lẽ tất nhiên cũng chính thắc mắc nầy tự nó đã làm sáng tỏ thêm cái nguyên cớ của nó. Ông Hồ đã lấy lại đúng họ của mình sau hơn một thế hệ bị chối bỏ bởi khuôn mẫu phong kiến khắt khe.
Qua hai tài liệu, một của ông Trần Quốc Vượng trước đây và một của ông Hồ Sĩ Sênh mới đây đã xác tín ông nội ông Hồ chính là cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Đây là quê gốc của những nhân vật lịch sử như Hồ Quý Ly, anh em Tây Sơn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ cũng như của nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương.
Đây cũng là quê hương của ông Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của ông Hồ, người phải bỏ nước bỏ đảng CSVN sống lưu vong bên Trung Quốc cho đến lúc qua đời bắt đầu từ thời Lê Duẩn làm Tổng bí thư vì bị ghép vào tội bán nước bám chân bành trướng TQ.
Vợ của ông Đặng Thái Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục trong chính phủ của ông Hồ 1945–1946 rồi làm Viện trưởng Viện Văn học, là bà Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi, bà cũng chính là mẹ của bà Đặng Thị Ngọc Hà người vợ thứ của ông Võ Nguyên Giáp (người vợ đầu của ông Giáp là bà Nguyễn Thị Quang Thái, em ruột của bà Nguyễn Thị Minh Khai vừa là đồng chí vừa là người vợ hôn thú với ông Lê Hồng Phong mà theo một số tài liệu từ thư khố của Nga có thời bà Nguyễn Thị Minh Khai chung chạ như là vợ chồng với ông Hồ lúc còn theo học tại Viện Phương Đông ở liên xô).
Cái gốc thế hệ thứ nhất là ông Hồ Sĩ Tạo mà ông Hồ là thế hệ thứ 3 đã giải quyết rõ ràng lai lịch của ông Hồ. Vậy là mọi thắc mắc đã được giải tỏa vì gia phả giòng họ Hồ đã được soi sáng, người viết xin trích phần cuối của bút ký “Chuyện ở sân sau” của ông Hồ Sĩ sênh.
(Còn tiếp)
10-09-2007
Sự thật về ông Hồ Chí Minh (Kết)
SôngLô
Tiếp theo phần I
Phần cuối của bút ký “Chuyện ở sân sau” (1)
“Cậu Công (*) gặp lại cha tại một địa điểm kín ở Gia Định, trong một buổi, trước khi cậu xuống tàu đi xa. Dặn dò con xong ông Huy lặn sâu vào giữa vùng Đồng Tháp Mười, chẳng để lại dấu vết nào với người đời, rằng mình đã từng là một Phó bảng thứ thiệt, là ông Huyện Bình Khê…
Ngày ấy Đồng Tháp Mười còn rậm rì năn lác, đường bộ chưa có là bao. Giao thông chủ yếu là nhờ vào những chiếc xuồng tam bản tự tạo của đồng bào sống ở miệt sình lầy. Ông Nguyễn Sinh Huy lặn lội đến vùng Cao Lãnh ngày nay thì dừng lại, ở nhờ một ngôi chùa. Nơi đây ông giấu biệt tông tích của mình, tự xưng là Cụ Vương, hành nghề bốc thuốc chữa bệnh.
Nhà Phật vốn chủ trương “cứu nhân độ thế”, các sư cũng luôn làm nhiệm vụ bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Bấy giờ làm gì có bệnh viện hay hiệu thuốc ở những vùng sâu, xa như thế. Thấy Cụ Vương giỏi y thuật, lại sống độc thân nên các sư rất mừng, lưu cụ ở luôn tại chùa để giúp đỡ bao nông dân nghèo khó đang hàng ngày vất vả kiếm sống và cũng vất vả chống lại tật bệnh, ốm đau. Phong trào chống thuế ở miền Trung đang nổi lên rần rần, nên nhà vua cũng làm ngơ luôn cái án của ông Tri huyện Bình Khê. Vậy là ông Nguyễn Sinh Huy được triều đình “bỏ quên”.
Chẳng bao lâu, cái tiếng của vị thầy thuốc giỏi, lại nhân từ, sẵn sàng chữa bệnh không công cho người nghèo, theo những chiếc xuồng nhỏ, len lỏi trên sông nước, trên kênh rạch lan truyền đi khắp vùng. Người ở xa chở con bệnh tới để chữa trị hoặc mua thuốc mang về. Người gần mời cụ ngồi xuồng tới nhà bắt mạch điều trị. Nhà nghèo cụ miễn luôn mọi khoản. Đức độ của cụ hoà vào nước Đồng Tháp Mười, thấm sâu vào đất đai, tạo nên vựa lúa bạt ngàn hôm nay…
Có lần chữa trị dài dài, cứu được mấy mạng người trong một gia đình, giúp họ thoát khỏi dịch bệnh, ông già Mai Nhuận trả ơn bằng cách gả cô con gái út của mình cho ông Vương.
“Không dám…”, Ông Vương cười. Chữa bệnh cứu người là công việc hàng ngày, tôi đã nguyện theo đuổi suốt đời, đâu dám mong có ân huệ đền đáp. Cô nhà đây còn nhỏ tuổi hơn cả con trai út của tôi. Nhận lời cụ chẳng hoá ra tôi là thằng khốn nạn hay sao?
“Chúng tôi không quan tâm tới việc thiên hạ dư luận, chỉ cần cụ nhận lời và nuôi cháu là nhất định gia đình sẽ có ngày mở mày mở mặt. Nó đến với cụ cũng đã sung sướng cho bản thân nó. Công việc nấu nướng, chợ búa… giúp cụ chuẩn bị thuốc men, so với việc đồng áng khác nhau một trời một vực, việc gì nó chẳng làm được. Cụ đừng lo…”
Năm ấy, ông Sắc đã ngoại lục tuần. Cô gái họ Mai mới ngoài hai mươi, nhỏ hơn cậu Công.
Ít lâu sau cuộc tình duyên muộn mằn ấy, cậu Vương Chí Nghĩa chào đời (1927). Ông Vương Chí Nghĩa là bố của Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt cùng năm người con gái khác. Theo Thượng toạ Thích Chân Quang, khai sinh lấy họ Vương, nhưng trong tiềm thức, trong gia phả là họ Hồ. Cụ Vương dặn như vậy. Lấy họ Vương là để che mắt kẻ thù. Việc rời Đồng Tháp lên Tây Nguyên cũng là vậy. Phải tránh sự khủng bố, truy bắt, bảo vệ mình và mở ra con đường kiếm sống lâu dài. Thượng toạ Thích Chân Quang sinh ở Tây Nguyên tháng 12, 1959. Tốt nghiệp đại học Khoa tiếng Anh, xuất gia năm 1980 cùng chị gái là Hồ Thị Minh Nguyệt, hơn ông hai tuổi.
(Ngày làm lễ Nhập hồn Tượng cho vua Hồ Quý Ly và nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi, Thượng toạ Thích Chân Quang cười nói với tôi: “Em viết việc tìm họ của anh đơn giản và dễ dàng quá! Thật ra là bọn anh phải dằn vặt, đau khổ, đi xác minh cẩn thận, có thu âm, ghi hình đầy đủ, người ta mới công nhận. Những người trông coi Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp cứ một mực bảo ông Sắc không có vợ lẽ ở đây! Anh sẽ ghi lại cụ thể chuyện này gửi em sau. Báo để em biết, anh đã đến thăm chú Hồ Thanh Chương, tình cảm của chú cháu là vô cùng nồng ấm.” Thượng toạ đã đối chiếu gia phả và gọi tôi là em, mặc dù tôi nhiều tuổi hơn.)
*
Việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc lấy họ Hồ làm họ mới của mình có gì giống với con cháu cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc ở Đồng Tháp nhận mình là dòng dõi họ Hồ không? Điều đó chắc chắn chúng ta đã vĩnh viễn không còn được biết. Trong mịt mờ quá khứ xa xăm, trăm ngàn mối quan hệ chằng chịt, đan xen, không ghi âm, chụp ảnh, không quay phim, ghi chép… làm sao lần mò ra được?
Cuốn Ngục trung nhật ký của Bác với 132 bài thơ (từ số 1 đến 133, nhưng bài số 100 chỉ có tên bài đề “Liễu Châu ngục” mà không có thơ), mở đầu bằng bài “Khai quyển”, kết thúc là bài “Kết luận” (Nay sách in mới, bài “Kết luận” được thay bằng bài “Mới ra tù tập leo núi”, một bài Bác ghi bên lề tờ Nhật báo Quảng Tây, không phải làm ở trong tù). Bài “Kết luận”, Bác viết:
Hạnh ngộ anh minh hầu chủ nhiệm
Như kim hựu thị tự do nhân
“Ngục trung nhật ký” tòng kim chí
Thâm tạ hầu công tái tạ ân.
(Tạm dịch: May mắn được gặp Chủ nhiệm họ Hầu sáng suốt. Mà nay tôi lại là người tự do, “Ngục trung nhật ký” từ nay chấm dứt. Cảm tạ sâu sắc ơn tái tạo của ông Hầu.)
Hầu công mà Bác nhắc ở đây là ông Hầu Chí Minh, thiếu tướng, Chủ nhiệm Chính trị Quân khu Hoa Nam của Quốc dân Đảng, người rất mực mến phục Bác, đã can thiệp tích cực để Bác được thả ra, trở về lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Điều đó cũng chứng minh rằng, nơi nào trên trái đất này cũng có người tốt!
Cái tên mới của Bác, ta có thể đoán mò một cách không chắc chắn rằng, Bác lấy tên người đã dũng cảm cứu mình để làm kỷ niệm. Tên ông là “Sáng Suốt” và việc làm của ông dành cho Bác cũng rất sáng suốt. Còn cái họ thì xin chịu. Liệu có sự dặn dò nào của cụ Phó bảng từ một ngày rất xa, khi hai cha con còn sống bên nhau không?
“Bác đi bôn ba thế giới “tìm đường cứu nước”, trải qua một vòng trái đất và mãi hơn 50 năm sau mới về lại quê nhà. Ý định nhận cha, nhận họ của cụ Phó bảng ngày dạy học ở nhà ông Hàn Kháng… cũng chưa thực hiện được. Vào Huế làm quan rồi trốn mãi vào miệt sình lầy Đồng Tháp, cụ không có điều kiện trở về. Ông Hồ Chí Nghĩa cũng vậy, không thể về bởi binh lửa liên miên và đất nước chia cắt. Chỉ mãi hôm nay Thượng toạ Thích Chân Quang mới hoàn thành việc đó.
Từ ngày cụ Phó bảng đi làm quan đến ngày Thượng toạ Thích Chân Quang tìm về, thời gian dài hơn thế kỷ. Chúng tôi lấy làm tiếc, nhà thờ họ Hồ Lai Nhã đâu còn ở chốn xưa! Ngày di dân, lòng tôi như vừa chịu một trận động đất mạnh 9 độ rich-te. Dân quân cả huyện ào ào đến dỡ làng kéo đi, hệt như chạy loạn. Hàng chục chiếc máy ủi màu đỏ son gầm gừ húc cây cối đổ ngổn ngang, san phẳng mọi vườn tược mà không có pháp luật nào giải thích, không một xu đền bù giải toả!… Cha con, anh em, họ hàng phải chia lìa nhau. Người bốc được thăm ở cuối rừng, kẻ bốc được thăm nằm đầu xã, cách nhau ba bốn cây số là chuyện bình thường. Mối quan hệ tộc họ từ ngàn xưa bị rạn vỡ. Nhà thờ họ vốn có vườn riêng đầy cây trái, nay đột nhiên không có đất đứng, phải hốt vào trong hẻm núi sâu, nơi bác tộc trưởng bắt được thăm, phong cảnh thật u ám, thê lương. Thật tiếc, trong thời khắc bối rối ấy, con cháu ở quê cũng không dám đấu tranh đòi cho nhà thờ họ một chỗ xứng đáng! Con cháu đi xa muốn tranh thủ về thăm quê cũng khó khăn. Vùng chân Trường Sơn mưa nhiều hơn nơi khác, đường sá không một tấc nhựa, lầy lội, nhớp nháp bởi thứ đất mến người, lại trèo đèo lội suối quanh co, khúc khuỷu. Anh em bà con nghèo túng hơn, về vài ngày là không thể đi thăm hết được, mà có về cũng vất vả lắm! Thôi đánh chịu lỗi với Tổ Tiên!
Thượng toạ Thích Chân Quang về đúng những ngày mưa tháng bảy. Sau khi dâng hương viếng mộ cụ Hồ Sĩ Tạo xong, mấy chú cháu trong họ, những người đi đón bàn nhau: Xin Thượng toạ hoãn việc về thăm nhà thơ họ Hồ Thanh Khê lại, vì đường quá xấu, xe không vào được. Nếu đi lỡ gặp tai nạn, thật là không nên… Và Thượng toạ đã đồng ý.
Chúng tôi chép toàn là chuyện ở sân sau. Người ta nói: Đời là một sân khấu lớn với hàng ngàn vở diễn, bi có, hài có… ồn ào và sôi động trải ra. Đó là ở sân trước. Sân sau khác hơn. Nó âm thầm, lặng lẽ… Nhưng có lẽ xin được dừng lại ở đây. Dã sử vốn có chỗ dị đồng với chính sử là thế! Cũng với khoảng thời gian chưa xa, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có buổi trò chuyện thân mật với một số con cháu họ Hồ. Chắc rằng mọi chuyện vẫn chưa phải đã hết. Còn có những điều sâu kín, dài dài, chưa thể nói ra, nhưng cũng rất con người, đang ở sân sau…
Mong ông bà, chú bác, anh em… cùng hương hồn Liệt Tổ Liệt Tông tha thứ cho.
Mùa xuân Đinh Hợi (2007)
(Địa chỉ: Hồ Sĩ Sênh, xóm Nghĩa Thai, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn, Nghệ An. ĐT: 0383 785248)”
Theo gia phả Thượng tọa Thích Chân Quang cũng là cháu gọi ông Hồ bằng Bác và lẽ dĩ nhiên cũng là anh em chú bác dù chưa được phép nói ra với ông Nông Đức Mạnh. Tất tần tật lý lịch của ông Hồ đã được khai thông.
Xây dựng huyền thoại xung quanh lãnh tụ
Xây dựng một vài huyền thoại xung quanh lãnh tụ tuy không nói ra nhưng chắc chắn đảng CSVN lưu tâm đến yêu cầu này. Cũng có thể ngay ông Hồ cũng muốn có sự lưu tâm này, hay nói cách khác chính ông là tác nhân của những huyền thoại này cũng nên?
Sau ngày 2 tháng 9 năm 1945, có một cuốn sách mỏng viết về sấm Trạng Trình đã được lưu hành trong dân gian với những câu chuyện bằng thơ vận vào ông Hồ như là một thiên mệnh với chức năng tiếp sức sự nghiệp chính trị của ông và lẽ tất nhiên cũng là cho chính đảng CSVN. Có một câu sấm được lưu truyền ở đất Nghệ Tĩnh mà qua đó người ta đã thần thánh hóa nó và ghép cho nó ứng nghiệm vào ông Hồ như là một vị thánh ra đời để cứu dân cứu nước.
“Đụn Sơn phân giải, Bò đái thất thanh, Nam Đàn sinh Thánh”. Nghĩa là: Núi Đụn Sơn tự xé đôi, khe Bò Đái không còn tiếng kêu thì đất Nam Đàn sẽ có thánh nhân ra đời.
Đụn Sơn và Bò Đái là hai địa danh nằm trong địa phận huyện Nam Đàn tỉnh Nghệ An. Nhân dân địa phương thường kể rằng: Câu sấm đó là do Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tiên tri từ thế kỷ thứ 16 nhưng đến cuối thế kỷ thứ 19 mới ứng nghiệm. Núi Đụn Sơn xưa kia là một hòn nguyên vẹn đã bị chia ra làm hai bởi một khe nứt ở giữa, và khe Bò Đái xưa kia ngày đêm vọng tiếng róc rách nước đổ thì đã không còn nghe nữa. Như thế tức là đã đến lúc đất Nam Đàn có Thánh ra đời… Thánh đó chính là ông Hồ Chí Minh. (2) Câu chuyện huyền hoặc, kỳ lạ, hoàn toàn do tưởng tượng nầy cứ được lan truyền trong dân gian.
Trong bài viết “Chuỗi luận lịch sử trong huyền thoại Hồ Chí Minh” của tác giả Trương Thái Du có trích đoạn từ một nguồn link trên mạng Internet có viết như sau:
Từ làng quê sinh ra Bác, đi về phía Tây dăm bảy cây số, du khách sẽ đến với bến Sa Nam cạnh dòng Sông Lam đẹp đến nao lòng. Ngước mắt lên đã thấy “Rú Đụn cây bày như giáo dựng, buồm xuôi Lam phố tựa cờ giăng”. Dưới chân Rú Đụn, còn lại vết tích của thành Vạn An xưa, còn nấm mộ và ngôi đền linh thiêng thờ Mai Hắc Đế. Đã gần 1.300 năm rồi mà tên tuổi của ông vua Đen chưa phai nhạt trong ký ức của nhân dân. Từ mộ Vua Mai, nhìn qua bên kia Sông Lam là “Dãy Thiên Nhẫn đứt rồi lại nối, trông như đàn ngựa ruổi chạy quanh”. Nơi ấy có khe Vũ Nguyên, tục gọi là khe Bò Đái với ngọn thác kỳ vĩ từ Côn Sơn cao vài ba chục mét thả xuống hồ nước xanh ngăn ngắt. Lại nhớ về câu sấm ký xa xưa: “Đụn Sơn phân giải, Bò Đái thất thanh, thủy đáo Lam thành…”. Câu sấm ký dường như tiên tri về sự xuất hiện của một nhân vật lịch sử vĩ đại. Có người cho rằng, người đó là Phan Bội Châu – “một đấng thiên sứ, một lãnh tụ cách mạng, một nhà văn hóa lớn”. Còn cụ Phan, cụ lại cho rằng người đó là Nguyễn Ái Quốc – một hậu sinh yêu quý nối gót cụ và có nhiều mặt hơn cụ. Ngôi nhà cụ Phan và Bảo tàng Phan Bội Châu hiện nằm trong thị trấn Sa Nam, là điểm tham quan rất bổ ích.[4] ((3) – DCV)
Lại nữa
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ
Đây là 2 câu thơ được cóp ngay câu đầu của bài ca dao dân gian gồm 4 câu
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi anh mùi bùn
Nhà thơ Bảo Định Giang đã cóp nhặt, gán ghép nhuần nhuyễn và được đảng CSVN hà hơi tiếp sức bằng cách ý nhị cho lưu truyền trong dân dã sao cho hai câu thơ trên dần biến thành 2 câu ca dao dân gian một cách tự nhiên với hàm ý làm nổi bật cái điều thực tế là ông Hồ sinh ra tại làng Sen tức Kim Liên để rồi ít nhiều hai câu thơ trên đối với dân dã đã là một sự kiện được hoàn cảnh an bài.
Cũng trong bài viết “Chuỗi luận lịch sử trong huyền thoại Hồ Chí Minh” của tác giả Trương Thái Du có lời kết như sau:
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm từ điển – ngôn ngữ xuất bản tại Hà Nội năm 1992 định nghĩa: “Huyền thoại (danh từ): Câu chuyện huyền hoặc, kì lạ, hoàn toàn do tưởng tượng, thần thoại.” Có lẽ tất cả các huyền thoại lãnh tụ Việt Nam đều “hoàn toàn do tưởng tượng” nhưng với mục đích chính trị rõ nét. Sợi chỉ đỏ này xuyên suốt chuỗi luận lịch sử chính trị Việt Nam.
Trên lí thuyết, tư tưởng Hồ Chí Minh là lẽ chính thống của Đảng cộng sản Việt Nam. Giá trị của huyền thoại Hồ Chí Minh, éo le thay, lại không nằm trong chính nội hàm của nó, mà cắm rễ một cách vững bền giữa tiềm thức của con người và xã hội Việt Nam. Mới đây thôi dư luận dân gian vẫn râm ran không dứt và đoán già đoán non lãnh tụ hiện tại của Đảng cộng sản Việt Nam, ông Nông Đức Mạnh là “con cháu” Hồ Chí Minh. “Mẹo” chính trị ư? Hay nguyện vọng của đại chúng? Giữa nhóm Á Đông gần gũi hiện ra các liên kết chân truyền: Mao Trạch Đông – Hoa Quốc Phong (con nuôi); Kim Nhật Thành – Kim Chính Nhật; Tưởng Giới Thạch – Tưởng Kinh Quốc; Lý Quang Diệu – Lý Hiển Long… Lại có người nghi vấn con ông Nông Đức Mạnh tên Tuấn và Liên dường như nhắc nhở đến Kim Liên (làng Sen) và Trần Quốc Tuấn (yếu nhân lịch sử mà Hồ Chí Minh luôn muốn so sánh và tôn sùng).
Những chân dung Hồ Chí Minh luôn sạch bụi, trang trọng nằm giữa bàn thờ tổ tiên trong nhiều gia đình truyền thống Việt Nam từ nông thôn đến thành thị là một thực tế không thể chối cãi. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh là cá nhân Việt Nam rõ nét nhất của thế kỉ hai mươi có ảnh được đặt vào ngôi đền anh hùng dân tộc cùng các tên tuổi chống ngoại xâm thành công suốt chiều dài lịch sử như Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Đó là chủ tố quan trọng đắp đổi thêm cùng huyền thoại, chính thống hóa quyền lực lúc sinh thời của ông và dọn cho ông một chỗ đứng trong kí ức dân tộc sau khi ông qua đời.
Dù kẻ muốn người không, Hồ Chí Minh vẫn là một nhân vật không thể thiếu trong các tài liệu lịch sử Việt Nam. Việc góp phần tự tạo dựng huyền thoại về mình của Hồ Chí Minh càng chứng tỏ ông rất am tường quá khứ dân tộc, cũng như con người và xã hội Việt Nam trong thế kỉ hai mươi. Điểm hơn người của ông ở đấy, và muốn luận được mất của ông chuẩn xác nhất cũng phải bắt đầu từ đấy.
© DCVOnline
DCVOnline: (1) Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trường Lam, talawas, 28/08/2007.
(2) Trích phần Bảo đại và “Nguyễn Ái Quốc” trong Hồi ký Từ Triều Đình Huế đến chiến khu Việt Bắc của Phạm Khắc Hoè:
“Đụn Sơn phân giải;
Bò Đái thất thanh,
Nam Đàn sinh Thánh”.
nghĩa là:
Núi Đụn Sơn tự phân chia ra , khe Bò Đái mất tiếng kêu đi thì đất Nam Đàn sẽ có thánh ra đời . Vì Đụn Sơn và Bò Đái đều nằm trong địa phận huyện Nam Đàn. Nhân dân địa phương thường kể rằng: Câu sấm đó là do nhà tiên tri Trạng Trình phán ra từ thế kỷ thứ 16. Đến cuối thế kỷ thứ 19, thì núi Đụn Sơn xưa kia là một hòn nguyên vẹn đã bị chia ra làm hai bằng một đường rạn nứt ở giữa, và khe Bò Đái xưa kia nước chảy ầm ầm ngày đêm thì đã không nghe tiếng nữa. Như thế tức là đã đến lúc đất Nam Đàn có Thánh ra đời…. Thánh đó là ai? Lúc đầu, người ta cho đó là nhà cách mạng Phan Bội Châu, nhưng khoảng năm 1920 trở đi, người ta lại cho đó là nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc mà hoạt động cách mạng ở Pháp đã bắt đầu vang dội vào trong nước.
Xin lưu ý nghĩa khác hẳn nhau trong đoạn trích dẫn từ Hồi Ký của Nguyễn Khắc Hoè, thượng dẫn, và đoạn văn của Nguyễn Thế Kỷ đăng ở VietnamNet ngày 31/01/2004 mà tác giả Trương Thái Du đã trích dẫn và ghi chú thích [4] và tác giả Sông Lô trích dẫn 1 lần nữa.
(3) Chú thích [4] trong bài Chuỗi luận lịch sử trong huyền thoại Hồ Chí Minh của Trương Thái Du ghi url http://www.vnn.vn/vanhoa/2004/01/46472/ là link dẫn đến bài Làng Chùa, làng Sen cổ xưa: gần gũi hơn giữa thời hiện đại của Nguyễn Thế Kỷ đăng trên VietnamNet ngày 31/01/2004.
Sông Lô
Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2009
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
2 nhận xét:
Viết xàm xàm
Thằng nào viết xàm xàm tào lao vậy. Giọng văn đúng là ko ngửi được.
Đăng nhận xét