tag:blogger.com,1999:blog-78421607302417136912024-03-13T23:22:51.371-07:00Phụ trang đặc biệt nhật báo NGƯỜIĐƯATINKAMINhật báo tiếng Việt oline ngoài quốc doanh, tiếng nói phản biện của trí thức Việt namVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.comBlogger45125tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-72670529734823719712009-08-07T04:40:00.000-07:002009-08-07T04:44:08.158-07:00No45:Trần Đức Lương Bị Tố Cáo Tham Nhũng Bạc Triệu Đô<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://4.bp.blogspot.com/_zHppN2nb7rs/SnwTfpYjInI/AAAAAAAAABo/3zpL6vIFltI/s1600-h/Block-4_28-Tran-D-Luong.jpg"><img style="float:right; margin:0 0 10px 10px;cursor:pointer; cursor:hand;width: 201px; height: 300px;" src="http://4.bp.blogspot.com/_zHppN2nb7rs/SnwTfpYjInI/AAAAAAAAABo/3zpL6vIFltI/s320/Block-4_28-Tran-D-Luong.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5367186290324480626" /></a><br />Một lãnh tụ CSVN vừa bị khui tội tham nhũng với một số chứng cớ do Trung Tướng hồi hưu CSVN đưa ra.<br /><br />Dưới đây là bản tin từ Đài RFA, loan ngày 10/5/04, của ký giả Việt Long. Toàn văn như sau.<br /><br />Một đảng viên cao cấp của đảng Cộng Sản VN vừa có thư tố cáo chủ tịch nước Trần Đức Lương tham nhũng. Cựu đại tá Quân Đội Nhân Dân VN, ông Bùi Tín, là người nhận được bản sao bức thư này. Chúng tôi phỏng vấn ông để nhờ ông trình bày cùng quý thính giả về sư. việc vừa kể.<br /><br />Cựu đại tá Bùi Tín từng là phó tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân chủ nhật, hiện đang sống lưu vong tại Pháp sau khi bày tỏ chính kiến bất đồng với Đảng Cộng Sản và chính quyền VN hiện nay.<br /><br />Ông Bùi Tín là người nghiên cứu sâu rộng về hiện tình đảng Cộng Sản VN trước đây và bây giờ. Hiện nay ông vẫn giữ mối liên lạc thường xuyên với nhiều bạn bè và đồng chí cũ trong nước. Mời quý vị và các bạn nghe cuộc trao đổi giữa Việt Long và ông Bùi Tín.<br /><br />Việt Long: Đầu tiên nhờ ông Bùi Tín trình bày với quý thính giả của chúng tôi về ông Đặng Quốc Bảo, người vừa có thư tố cáo chủ tịch nước Trần Đức Luơng tham nhũng.<br /><br />Bùi Tín: Tôi quen ông Đặng Quốc Bảo hơn 30 năm nay. Ông Đặng Quốc Bảo năm nay 76 tuổi. Ông vào Quân đội Nhân dân từ sau Cách Mạng tháng 8, tức là năm 1946 cùng năm với tôi. Ông là cán bộ trung đoàn từ khi mới có 25 tuổi. Sau đó, ông Đặng Quốc Bảo vào đảng và sau này được bầu vào Ban chấp hành Trung ương ở kỳ đại hội 4 và đại hội 5.<br /><br />Trong quân đội, ông Đặng Quốc Bảo đã làm đến cấp Trung tướng trước khi về nghỉ hưu. Sau khi ông ra khỏi quân đội, ông đã từng làm Trưởng ban Khoa giáo Trung ương đảng. Ông Đặng Quốc Bảo là một con người rất là trực tính, rất chăm suy nghĩ và đọc sách. Có thể nói anh Bảo là một người trí thức thực sự theo đúng nghĩa của nó, tức là rất ham hiểu biết, ham tìm tòi, và có tư duy độc lập.<br /><br />Có một thời kỳ, anh Đặng Quốc Bảo làm đến Bí thư thứ nhất của Đoàn Thanh niên CS HCM, để cho thấy ổng hoạt động ở rất nhiều mặt như: chính trị, quân sự, giáo dục... Trong một thời gian, ông đã từng làm Hiệu trưởng trường Kỹ thuật quân sự đóng ở Vĩnh Yên. Tôi đã có nhiều lần lên thăm nhà trường đó khi ông đang làm hiệu trưởng.<br /><br />Việt Long: Ông nhận được bản sao thư của ông Đặng Quốc Bảo tố cáo ông Chủ tịch nư ớc tham nhũng vào lúc nào và trong truờng hợp như thế nào?<br /><br />Bùi Tín: Trước đó ông Đặng Quốc Bảo đã cho gửi ra ngoài một bài nói chuyện đài đến 29 trang. Ông nói chuyện nội bộ trong một đảng bộ ở phường Cửa Đông, tức là gồm rất nhiều sĩ quan cao cấp về hưu. Khi có dịp tôi xin hầu chuyện các bạn nghe đài về buổi nói chuyện rất là lý thú đó để thấy đất nước ta không thiếu những con người có tâm suy nghĩ chiến lược và ngay thẳng ngay trong một chế độ độc đoán của đảng CS.<br /><br />Gần đây tôi nhận được một bài tóm tắt của ông ấy tố cáo ông Chủ tịch nước hiện nay, ông Trần Đức Lương, là một con người không trong sáng, trong sạch. Trước đây, ông Nguyễn Thanh Giang đã có lần khen ông Trần Đức Lương khi còn làm Tổng cục Địa chất có cuộc sống giản dị và là một người biết nghe ngóng bạn bè ở xung quanh, tức là có tính chất dân chủ.<br /><br />Thế nhưng, từ khi lên làm Chủ tịch nước, ông Trần Đức Lương đã không còn giữ được cái bản chất như thế nữạ. Việt Long: Vâng, thế nội dung chính của lá thư có những điều tố giác nào ch ính yếu?<br /><br />Bùi Tín: Ông Đặng Quốc Bảo gần như tố cáo người cầm đầu nhà nước hiện nay và chất vấn phải trả lời về 5 điểm, tất cả đều xung quanh tính tham nhũng. Ông cho rằng một người đứng đầu nhà nước mà lại kêu gọi tham nhũng, và nghị quyết của đảng từ 3 năm nay là chống tham nhũng đến cùng bất cứ ở cấp nào. Ông ta từ khi lên chức Chủ tịch nước lại sinh đốn đến như thế.<br /><br />Ông Bảo chất vấn rằng hiện nay có nhiều biêt rất rõ là ông Trần Đức Lương đang sở hữu một khách sạn 5 sao, như thế là thế nào? Và đảng có 19 điểm cấm cán bộ và các đảng viên có chức có quyền kinh doanh để kiếm lợi.<br /><br />Chất vấn thứ hai, ông Trần Đức Lương đã có quyền sở hữu 6 hecta ở một vùng đất rất quý, là khu du lịch Đồng Mô, ở Hà Tây, để mà kinh doanh về du lịch. Điểm thứ ba, hai vợ chồng ông Trần Đức Lương có thêm 200 mét vuông ở khu du lịch Tuần Châu, ở quần đảo Tuần Châu, ở ngoài Quảng Ninh. Đất này người ta coi như là vàng vậy, mỗi một thước vuông là mấy cây vàng.<br /><br />Thứ tư, ông ta có hàng triệu đôla và tìm cách đưa gửi cho người thân và tay chân của mình ở nước ngoài. Chúng ta đều biết rằng tay chân của ông Chủ tịch nước rất đông ở các ngành ngoại giao, ngoại thương và có những quan hệ với nước ngoài.<br /><br />Cuối cùng, người ta nói hai vợ chồng ông Trần Đức Lương đã lấy tiền công ra chữa một nhà riêng và tất cả tiền để sửa chữa nhà riêng lên đến 3 tỷ đồng. Sau khi ông Đặng Quốc Bảo chất vấn ông Trần Đức Lương như thế, và cũng có nghị quyết của đảng rằng mỗi một đảng viên phải báo cáo về sở ; hữu và tình hình tài chính và kinh doanh của mình như thế nào.<br /><br />Gần đây, trong nội bô. Bộ chính trị đã có một phiên kiểm điểm lẫn nhau, người nọ chất vấn người kia. Do đó mới loài ra tệ hại của người cầm đầu nhà nước. Không những ông Đặng Quốc Bảo, tôi còn nghe ông Nguyễn Minh Triết cũng là ủy viên Bộ chính trị, hiện nay là Bí thư của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh, trong một buổi nói chuyện, đã nói rõ rằng nước VN hiện nay đang "dột từ trên nóc dột xuống", và nói rõ vợ chồng ông<br /><br />Trần Đức Lương là tiêu biểu cho vấn đề tham nhũng, không thể giữ được vấn đề danh dự và uy tín trước nhân dân được nữa, bởi vì hai vợ chồng này đã lấy tiền công quỹ để sửa nhà và lên đến nhiều tỷ đồng trong khi nhân dân còn cực khổ đến như thế.<br /><br />Việt Long: Thưa ông đó điều trong những điều mà ông Trần Đức Lương bị tố giác trong một buổi họp của bô. chính tri. Trung Ương Đảng phải không ạ? Bùi Tín: Vâng, Trong buổi nói chuyện ông Nguyễn Minh Triết đã nói công khai với các cán bộ TP. HCM điều đó để chứng tỏ ngay trong nội bô. Bộ chính trị ngư ời ta cũng đã không hài lòng lẫn nhau và đã có những tố cáo, lên án nhau như thế.<br /><br />Việt Long: Thưa ông nghe nói là sau những vụ tố giác như thế thì có lần ông Trần Đức Lương có nói rằng bây giờ Đảng cũng đã cho phép đảng viên kinh doanh rồi, thì các đồng chí cũng phải để cho tôi kiếm ít tiền nuôi gia đình chứ... Điều đó có đúng không thưa ông?<br /><br />Bùi Tín: Đúng là như thế, chính ông Đặng Quốc Bảo kể lại rằng sau cuộc chất vấn như thế thì qua những người thân cận của mình, ông Trần Đức Lương còn trần tình biện bạch cho mình rằng: "Đây là tôi làm theo ý của đảng, đảng cũng khuyên các đảng viên làm kinh tế, do đó mà tôi cũng kiếm tiền, kiếm vốn cho vợ con tôi để tôi nghĩ đến chuyện sắp sửa về hưu nữa chứ!".<br /><br />Việt Long: Sau khi ông Trần Đức Lương phát biểu như thế thì các vị lãnh đạo cao cấp trong Trung Ương Đảng có phản ứng hay có chất vấn gì thêm nữa không?<br /><br />Bùi Tín: Vâng, họ có nói rằng là Đảng nói phải làm theo sức kinh doanh và lao động của mình chứ. Ông làm chủ tịch nước mấy năm nay, hàng ngày ông để bao nhiêu thời giờ để nghĩ về công việc chung của đất nước mà ông lại còn tinh thần để kinh doanh. Mà kinh doanh lại xuất sắc đến như thế. Nếu làm ăn lương thiện bằng sức lao động thì không thể có được 1/100 số gia tài như thế. Đó là hoàn toàn do ăn cắp, tham nhũng mà ông Đặng Quốc Bảo dùng chữ "cướp ban ngày". Mà ông Chủ tịch nước mà "cướp ban ngày" thì khiếp quá đi mất thôi.<br /><br />Việt Long: Những điều ông vừa kể có phải là những phản ứng của mà các đảng viên cao cấp trong Đảng nói với ông Trần Đức Lưong phải không ạ?<br /><br />Bùi Tín: Vâng, đó là những điều mà người ta nói thẳng với ông Trần Đức Lương. Tôi có những anh bạn ơ? Hà Nội cho biết rằng bây giờ mà mở tivi mà thấy mặt ông Lương ở trên đó thì đến ngay cả thanh niên cũng còn giữ được bình tĩnh nữa mà gọi là "cái lão này", "cái ông này", "cái tên này" tham nhũng khủng khiếp lắm. Đây là kẻ cướp của đất nước này đây.<br /><br />Việt Long: Nhưng mà thưa ông Bùi Tín, chúng tôi thấy là theo tin tức trong nứoc, ở trên Internet cũng như theo những nguồn khác, thì không hề đề cập đến việc này, như vậy thì người dân làm sao có thể biết được để mà tỏ thái độ giận dữ hay là khinh ghét như vậy?<br /><br />Bùi Tín: Chẳng như mỗi lần người ta đi ngang qua nhà ông Trần Đức Lương thì sẽ chỉ trỏ và nói đây là nhà ăn cắp. Ở Hà Nội bây giờ tự do hơn nhiều không giống như trước. Tuy không nói trên báo chí hoặc đài, nhưng mà trong thanh niên, cán bộ về hưu, câu lạc bô. Thăng Long, câu lạc bô. Ba Đình v.v... thì điều gì người ta cũng truyền tụng nhau cả.<br /><br />Mà điều truyền tụng nhanh nhất là các thủ đoạn ăn cắp, do đó mà ông Đặng Quốc Bảo đã nêu lên trong bài phát biểu trước đảng bô. Cửa Đông rằng đảng bây giờ phải giật mình để nhận ra rằng có những quan hệ rất tệ hại với mafia với xã hội đen, và chính con em của những đảng viên cao cấp đã trở thành những tư bản đỏ, không phải là tư bản lương thiện, đó là những tư bản kiếm chác nhờ chức, quyền, thế, của bố mẹ và của bản thân mình.<br /><br />Việt Long: Xin cảm ông Bùi Tín đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn ngày hôm nay.Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-65703242982491818282009-08-07T00:30:00.000-07:002009-08-07T00:34:05.808-07:00No44: Cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt đóng góp ý kiến với Trung ương ĐảngLời Giới Thiệu: Cựu Thủ tướng Việt Nam, ông Võ Văn Kiệt, vừa gửi Trung Ương đảng Cộng sản Việt Nam bản đóng góp ý kiến vào bản “báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới” do Hội nghị TƯĐ lần thứ 12 soạn thảo làm phương hướng cho Đại Hội Đảng khóa 10. Từ TƯĐ được đưa ra ngoài một cách kín đáo, bài tham luận của ông Kiệt nêu lên nhiều vấn đề thực tiễn, phê phán nhiều hành động tả khuynh của lãnh đạo Đảng trong nhiều thời kỳ từ nửa thế kỷ nay, và đề xúât những hướng đi mới. Dưới đây là toàn văn bài viết của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt.<br /><br />Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới<br /><br />Võ văn Kiệt<br /><br />Được các đồng chí gửi cho đọc bản “Báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn 20 năm đổi mới” và mời góp ý kiến, tôi đã dành thời gian đọc kỹ, suy ngẫm xem có thể góp được gì vào nội dung hết sức quan trọng này.<br />Là người có trải qua nhiều chặng đường trong sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng suốt 65 năm qua, cũng đã có một số năm chỉ đạo hoạt động kinh tế ở nhiều cương vị khác nhau, do đó, cũng phần nào có điều kiện đi đây đi đó, làm việc và tiếp xúc với bên ngoài, có dịp trao đổi với nhiều nhà lãnh đạo của một số nước, tôi cũng tích luỹ được một số hiểu biết, một số kinh nghiệm. Trong vài ba năm gần đây, tuy rời khỏi những vị trí trách nhiệm được Đảng và Nhà nước phân công, song tôi chỉ “rời nhiệm sở” chứ không rời trách nhiệm của người đảng viên đối với sự nghiệp của Đảng và của nhân dân ta.<br />Với ý thức trách nhiệm và tính chiến đấu của người cộng sản, tôi vẫn cố gắng cống hiến phần đời còn lại cho sự nghiệp lớn của chúng ta. Vì vậy, tôi vẫn cố gắng đi đến những nơi mà mình còn có thể đến được, nắm bắt thực tế để có thể góp phần của mình một cách thiết thực và cụ thể vào công tác của Đảng, trao đổi về công việc với các đồng chí vốn đã từng làm việc với tôi ở các địa phương và các ngành. Tôi cũng dành thời gian tiếp xúc với nhiều anh chị em hoạt động trên nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật... để lắng nghe những ý kiến tâm huyết của họ, giúp chuyển tải những ý kiến đóng góp của họ đến những nơi cần thiết.<br />Chính vì thế, tôi vẫn có được những thông tin giúp mình suy nghĩ, cân nhắc để hôm nay có thể thẳng thắn và chân thành trao đổi với các đồng chí đang làm công tác tổng kết về lý luận và tổng kết về hoạt động thực tiễn, một công tác mà theo nhận thức của tôi, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, đối với sự nghiệp của nhân dân ta trước những thách đố gay gắt chưa có tiền lệ, cũng như trước những vận hội cần phải nắm lấy, không thể để tuột khỏi tay mình. Để cho công tác tổng kết lý luận và tổng kết hoạt động thực tiễn có thực chất, có ý nghĩa trực tiếp và lâu dài đối với sự nghiệp của Đảng ta và của nhân dân ta, cần xác lập một thái độ trung thực và có trách nhiệm, dám nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật như Đại hội VI đã lấy đó làm phương châm để mở đầu cho sự Đổi Mới.<br />Trên tinh thần đó, tôi xin thẳng thắn trình bày những ý kiến của mình về nội dung của báo cáo tổng kết và đưa ra những kiến nghị. ý kiến của một cá nhân, tất nhiên có những hạn chế của nó. Nhưng nếu trên tinh thần dân chủ và minh bạch trong tranh luận, ý kiến đó được đưa ra trao đổi (phạm vi trao đổi, đương nhiên phải do tổ chức quyết định) một cách thật mạnh dạn, trung thực và chấp nhận sự tranh luận cởi mở và thật sự dân chủ, thì chắc sẽ gặt hái được nhiều kết quả thiết thực và bổ ích, thúc đẩy công tác lý luận đổi mới về nội dung và phương pháp khắc phục tình trạng “chưa theo kịp sự phát triển và yêu cầu của cách mạng”, “còn không ít vấn đề cụ thể đặt ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục”, “phương pháp tư duy chưa vươn tới tầm biện chứng, còn dừng lại ở trình độ cảm tính, ở chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc thực dụng” như Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 5 BCHTƯ khoá IX đã chỉ ra. Nghị quyết cũng đã lưu ý rằng: “những yếu kém bất cập nêu trên là do chưa đặt đúng mức việc chỉ đạo đổi mới nội dung, phương pháp công tác tư tưởng, lý luận trong giai đoạn mới”.<br />Tôi mong rằng, bằng những hành động thiết thực trong tổ chức trao đổi và góp ý kiến vào Bản tổng kết lần này, tinh thần cơ bản của nghị quyết nói trên sẽ được thực hiện một cách nghiêm túc và có chất lượng. Trên ý nghĩa đó, tôi sẽ trình bày những ý kiến và kiến nghị của tôi về những vấn đề sau đây:<br /><br />Một số ý kiến về nội dung tổng kết lý luận<br />Trước hết tôi thấy đáng ghi nhận là trong bản tổng kết này các đồng chí đã cố gắng xới lên rất nhiều vấn đề, trong đó có nhiều vấn đề rất phức tạp, khá hóc búa cả về lý luận cũng như về thực tiễn, mà trước đây hoặc chúng ta chưa đề cập tới, hoặc đề cập không thấu đáo, thậm chí lệch lạc. Đó là ưu điểm và cũng là một bước tiến của bản tổng kết này so với nhiều bản tổng kết trước đây.<br />Tuy nhiên, trong bản góp ý này, tôi sẽ không đi sâu vào những ưu điểm. Thiết nghĩ hữu ích hơn là lưu ý một số khía cạnh, một số vấn đề để các đồng chí tham khảo và hoàn thiện bản tổng kết tốt hơn.<br />Chúng ta biết, sau một chặng đường dài phát triển, Đại hội X sắp tới mang một sứ mệnh rất nặng nề là: lái con thuyền Việt Nam như thế nào trong dòng chảy lớn của sự phát triển thế giới trước mắt. Bây giờ chúng ta không thể chỉ đặt ra vấn đề của Việt Nam như chuyện trong nhà, mà là chuyện ganh đua với thế giới để tồn tại và phát triển.<br />Một lần nữa, thử thách lớn của lịch sử lại đặt ra trước Đảng ta. Sau khi làm cách mạng thành công, rồi tiến hành chiến tranh giải phóng, mở cửa và đổi mới, đến nay nước ta đứng trước một thách đố mới: phát triển nhanh và bền vững, hội nhập trong độc lập, đi tiếp trong nhịp chung của thế giới, làm sao không vấp ngã, không tụt hậu. Cuộc thách đố này trước hết đòi hỏi một sự bứt phá mạnh dạn về tư duy, về đường lối, về tổ chức, trong đó đặc biệt quan trọng là tổ chức Đảng và Hệ thống chính trị, về chính sách và biện pháp. Vì thế, vấn đề không chỉ đơn giản là nói như thế nào để mọi người vừa lòng, mà là vạch đường chỉ lối, tìm ra giải pháp tối ưu cho đất nước, cho dân tộc, cho chính Đảng ta.<br />Theo tinh thần đó, tôi xin đi thẳng vào mấy khía cạnh sau đây:<br />I. Cần đổi mới và làm rõ một số khái niệm được sử dụng trong báo cáo tổng kết<br />Trong bản tổng kết còn sử dụng khá nhiều khái niệm và thuật ngữ như một thói quen từ nhiều thập kỷ trước. Trong hoàn cảnh mới, với những kinh nghiệm lịch sử mà chúng ta nếm trải, thì cần nhìn lại những khái niệm đó một cách đầy đủ hơn, sâu sắc hơn. Nhưng trong bản báo cáo này những khái niệm đó được coi như chuyện đương nhiên, không được phân tích, phê phán, không làm sáng tỏ thêm nội hàm, mà hầu như giữ nguyên như cũ cách nhìn, cách định hình đã có trước đây rồi đưa vào hệ thống quan niệm hiện nay của chúng ta. Có lẽ phải bắt đầu từ việc đổi mới trong tư duy về một số khái niệm đó. Tôi nghĩ, đây là việc không đơn giản, nhưng nhất thiết không được bỏ qua, lảng tránh một đòi hỏi có tính bức thiết và có ý nghĩa khởi đầu công tác lý luận. Vì như chúng ta đã từng xác định, để tiến tới Đại hội X, đánh dấu một cái mốc quan trọng cho sự bứt phá vươn lên của đất nước ta, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu so với khu vực và thế giới, chúng ta phải nhìn lại chặng đường đã qua và định hướng cho chặng đường sắp tới.<br />Để hoàn thành nhiệm vụ đó, có một loạt khái niệm cần được xem xét lại, kỹ hơn, sâu hơn, cần phải rà soát lại nội dung của từng khái niệm đó.<br />Dưới đây là ví dụ cụ thể:<br />1. Từ bao nhiêu năm nay, lúc nào chúng ta cũng khẳng định rằng Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam. Chưa bao giờ chúng ta chủ trương làm trái chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng tại sao chúng ta vẫn mắc nhiều sai lầm? Nếu có một kim chỉ nam trên tay, thì khó có thể lạc hướng. Nhưng tại sao vẫn có những giai đoạn lạc hướng. Điều đó chứng tỏ rằng chúng ta không đọc được những mã số của nó. Vậy vấn đề bây giờ không còn là nêu lên những khái niệm chung chung, mà phải xác định rõ nội hàm của những khái niệm đó.<br />2. Về chủ nghĩa Mác-Lênin, lâu nay không có một đảng cộng sản hay công nhân nào nói rằng không đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin, không kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhưng mỗi đảng đi theo một con đường khác nhau, đảng này lại còn phê phán đảng kia là làm sai những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vậy là có nhiều cách hiểu về chủ nghĩa Mác-Lênin.<br />Cách hiểu nào là đúng? Hai mươi năm trước, đầu thời đổi mới, chúng ta đã từng nêu ra là cần phải có nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác-Lênin và đã tiến hành nghiên cứu, phân tích xem trong chủ nghĩa Mác-Lênin điều gì trước đây đúng và đến nay vẫn đúng, điều gì trước đây đúng nhưng nay không còn phù hợp nữa, điều gì ngay từ trước đã có sai sót, điều gì chưa có cần bổ sung và phát triển.<br />Công việc rất quan trọng trên đây chưa hoàn thành và có phần bị ngừng lại giữa chừng. Nhiều quan niệm cũ lại tiếp tục chi phối.<br />3. Tư tưởng Hồ Chí Minh rất đa dạng, rất phong phú và sâu sắc. Xưa nay, chưa bao giờ có ai trong chúng ta nói rằng không theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng trong thực tế ở rất nhiều nơi và đã rất nhiều lúc chúng ta vi phạm nghiệm trọng tư tưởng của Bác Hồ: đối với công thương gia, đối với trí thức, với các thân hào thân sĩ, đối với các công chức lưu dụng, đối với việc tôn trọng quyền tự nguyện của nông dân, đối với việc phê và tự phê trong Đảng, đối với chính sách đại đoàn kết dân tộc, đối với sự thẳng thắn phê bình của Đảng trước nhân dân ....<br />Đã có nhiều công trình nghiên cứu rất tốn kém về chủ để tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhưng hình như cũng chưa công trình nào nhìn nhận một cách thẳng thắn xem chúng ta đã từng vận dụng đúng đắn tư tưởng gì của Bác Hồ và đã vi phạm những gì trong tư tưởng của Người. Nếu không làm rõ việc đó thì khó xác định được những tư tưởng nào làm chỗ dựa cho chúng ta trong chặng đường đi tiếp, mà rất có thể sẽ tiếp tục tình trạng lúc nào cũng nói rất hùng hồn là trung thành, là đi theo, là nắm vững, thậm chí còn tổ chức cả cuộc thi viết báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng có gì đảm bảo được rằng chúng ta không tiếp tục phạm sai lầm, làm trái với tư tưởng đó? Đã có công trình nghiên cứu nào tiến hành nghiên cứu một cách trung thực, khách quan và với phương pháp khoa học để đánh giá được thực chất những hoạt động và cách tuyên truyền, cổ động nói trên chưa?<br /><br />4. Về giai cấp công nhân Việt Nam, chúng ta thường nói như một công thức rằng Đảng Cộng sản là đội tiền phong của giai cấp công nhân. Nhưng cho đến nay, khái niệm giai cấp công nhân được xác định như thế nào? Giai cấp công nhân hiện nay so với giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ Pháp thống trị, giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ khác nhau ở chỗ nào? Trong điều kiện kinh tế tri thức, kinh tế thị trường, thì giai cấp công nhân có những đặc điểm gì mới, thái độ chính trị thế nào, lòng căm thù giai cấp, sức chiến đấu giai cấp có khác gì trước? Ngày nay không còn có thể tiếp tục nói chung chung về giai cấp công nhân Việt Nam. Hiểu về một giai cấp không rõ, thì khó thấy, khó biết được đội tiền phong của giai cấp đó là gì và phải làm gì.<br />Ngay cả khi nhiệt tình cách mạng là có thật, thì chúng ta vẫn cần nhớ rằng: Lênin đã từng nhắc đến một kiểu người đang đứng trong đội ngũ cách mạng song đang làm hại cách mạng bởi: “Nhiệt tình cách mạng cộng với dốt nát bằng sự phá hoại”. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội của chúng ta, đã có không ít trường hợp sự nghiệp phát triển kinh tế bị “phá hoại” bởi những loại nhiệt tình như vậy.<br />5. Bác Hồ đã nói rõ trong Đại hội II, “vì Đảng là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động cho nên Đảng phải là Đảng của dân tộc”. Đó là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Chúng ta có theo tư tưởng ấy của Hồ Chí Minh không?<br />Nếu không làm rõ những khái niệm và tư tưởng trên đây, cứ lẩn tránh thì chúng ta lại tiếp tục sử dụng những cách xác định mơ hồ, chung chung, dựa vào một kim chỉ nam mơ hồ, làm sao tránh được những sai lầm như trước đây chúng ta đã mắc, và rất có thể lại như trước đây, nói một đường, thực tế làm một nẻo. Thực tế là trong một thời gian khá dài, Đảng dường như không phải là của giai cấp công nhân hiện nay. Những gì mà chúng ta dạy, chúng ta nói về bản chất tốt đẹp của giai cấp công nhân mà Đảng là tiêu biểu đã dần mất đi nhiều. Giai cấp công nhân trong thực tế không biết và không có quyền được biết đội tiên phong của mình đang làm gì.<br />6. Về công thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, chúng ta cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đường, làm một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xuyên nói đến cái công thức kể trên như một cách để nói, chứ không phải nói để làm, nói vậy mà không phải vậy. Thực chất nội dung của công thức đó chính là đảm bảo được dân chủ trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do dân chủ của mọi công dân đã được qui định trong Hiến pháp của Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.<br />7. Trong bản báo cáo, có rất nhiều chỗ đã sử dụng khái niệm “tránh chệnh hướng”. Đây cũng là một khái niệm thường xuyên được sử dụng, song nội dung của nó thì lại được vận dụng rất tuỳ tiện, thậm chí thô thiển và thô bạo khi dựa vào một nội dung có phần mơ hồ, thiếu xác định để thực thi thói quen độc quyền chân lý, áp đặt tư duy, tuỳ tiện quy kết. Vấn đề thực ra có thể là rất cụ thể và sòng phẳng: Trên chặng đường trước mắt, thế nào là hướng và thế nào là chệch?<br />Kinh nghiệm lịch sử đã cho chúng ta thấy rằng có rất nhiều trường hợp, một giải pháp từng bị coi là chệch hướng trong một thời gian dài, nhưng sau này lại thấy là đúng. Nhiều giải pháp coi là đúng hướng, thì lại vấp phải ách tắc, thất bại. Thí dụ: Khi tiến hành cải tạo tư sản, những người muốn chủ trương duy trì kinh tế nhiều thành phần đều đã từng bị coi là đi chệch hướng. Việc xoá bỏ thành phần kinh tế tư nhân lúc đó được coi là đúng hướng. Khi tiến hành hợp tác hoá, ai muốn duy trì thích đáng kinh tế nông dân cá thể cũng bị coi là chệch hướng. Làm ăn tập thể, đưa các hợp tác xã lên cấp cao (một cách gò ép), đi vào kế hoạch Nhà nước tập trung, thu mua theo giá Nhà nước và theo chỉ tiêu của Nhà nước đã từng được coi là con đường duy nhất đúng hướng. Sau một thời gian dài, phải trả giá rất nhiều, sự đúng hướng đó đi vào ngõ cụt đến mức không có khả năng đi tiếp theo cái “đúng hướng” đó nữa, thì mới tỉnh ngộ ra và mới thừa nhận rằng những điều tưởng là đúng hướng lại là chệch, và cái tưởng là chệch lại là đúng, mà hiện nay chúng ta đang đi theo.<br />Vậy thì trong số những cái đang được gọi là đúng hướng và chệch hướng mà chúng ta dự kiến trước mắt, có những căn cứ khoa học nào để xác định, hay vẫn chỉ là những vũ đoán duy ý chí và tuỳ tiện. Tất cả những vấn đề đó cần phải nghiên cứu rất kỹ, không thể khẳng định chung chung, nếu không chúng ta rất dễ gặp lại những ách tắc, trì trệ, đồng thời rất dễ làm thui chột đi những sáng kiến, những khai phá để mở ra con đường phát triển.<br />8. Về khái niệm diễn biến hoà bình cũng vậy. Cho đến nay, tình hình thế giới thay đổi rất nhiều. Những nước phương Tây điều chỉnh chủ trương, chính sách và biện pháp của nó hàng tháng, hàng năm. Không nên dùng một khái niệm chung chung, trừu tượng như thế để lượng định những nguy cơ từ phía các nước phương Tây.<br />Theo tôi hiểu và qua trao đổi với những người bạn quốc tế, đặc biệt là một vài người bạn có lúc ở cùng cảnh ngộ với ta trong khối ASEAN đã hoặc đang ở trên những cương vị lãnh đạo cho phép họ nhìn nhận vấn đề một cách tỉnh táo và khách quan xuất phát từ bài học kinh nghiệm của chính họ và dân tộc họ đã trải qua, trao đổi với nhiều anh chị em trí thức trong nước và ở nước ngoài có hiểu biết và nhất là có sự tha thiết muốn góp phần vào sự phát triển đất nước, người ta nói với tôi rằng: hiện nay, trong các chiến lược của các nước phương Tây không còn mấy ai dùng đến khái niệm diễn biến hoà bình đối với các nước xã hội chủ nghĩa.<br />Bối cảnh của tình hình mới mà chúng ta đang phải đương đầu là cực kỳ phức tạp. Những thế lực thù địch trăm phương nghìn kế phá hoại sự nghiệp của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, trong đó, có những thủ đoạn cực kỳ thâm hiểm và tinh vi. Đề cao cảnh giác và luôn luôn nâng cao tinh thần cảnh giác trong cán bộ, đảng viên và nhân dân ta là nhiệm vụ thường trực của chúng ta. Song nội dung của tinh thần cảnh giác đó cũng không thể cực đoan, một chiều theo cách phân tích địch ta quá đơn giản và thiếu nhạy bén chính trị, mà phải luôn luôn có cái nhìn toàn cuộc, nhìn rõ thế và lực của ta hiện nay, cũng như hiểu cho sâu mối tương tác giữa các thế lực ở khu vực và trên thế giới.<br />Khái niệm “diễn biến hoà bình” mà ta đang thường xuyên sử dụng chưa thể hiện đủ tinh thần cảnh giác đó, ngược lại, có thể làm biến dạng ý thức cảnh giác, gây nên những phản cảm làm trở ngại cho chính việc nâng cao tinh thần cảnh giác. Tôi nghĩ, chúng ta phải thật tỉnh táo nhìn nhận lại vấn đề này, nhất là khi chúng ta đã dõng dạc tuyên bố với thế giới: Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, muốn là đối tác đáng tin cậy của tất cả mọi người.<br />Đây sẽ là một vấn đề rất gay cấn trong tranh luận, song không thể lảng tránh việc đặt lên bàn nghị sự để bàn luận cho ráo riết, ra bắp ra khoai.<br />9. Về thái độ và quan hệ giữa các thành phần kinh tế, chúng ta vẫn tiếp tục nói như một thói quen: Một mặt nói rằng xoá mọi sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, đồng thời luôn luôn qui định kinh tế nhà nước phải là chủ đạo. Nếu đã qui định trước cái gì là chủ đạo, thì sao có thể nói được rằng mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng? Kinh tế nhà nước hiện nay rất yếu kém, nhiều khuyết tật. Một nền kinh tế nhiều thành phần, mà thành phần nhiều khuyết tật nhất, kém hiệu quả nhất lại là chủ đạo. Vậy thì nền kinh tế đó sẽ phát triển như thế nào và đi vào cuộc đua với thế giới này như thế nào? Những vấn đề đó chúng ta chưa phân tích đến nơi đến chốn, chỉ nhắc lại công thức như một thói quen để làm hài lòng những tư duy đường mòn bảo thủ, vừa muốn giữ lại cái cũ làm chỗ dựa, vừa bất lực trong việc giúp cho nền kinh tế được phát triển tối ưu.<br />10. Khi nói về những tệ nạn trong xã hội và vấn đề phẩm chất của Đảng viên, báo cáo vẫn chỉ nhắc lại những căn bệnh cố hữu là tham nhũng, quan liêu, phẩm chất sa sút. Đó quả là một nguy cơ lớn. Nhiều Đảng đã tan rã vì căn bệnh này. Nhưng đến lúc này thì sẽ là hoàn toàn không đủ nếu chỉ nhắc lại chung chung rằng đang có những căn bệnh đó. Phải chỉ ra những nguyên nhân sâu xa của căn bệnh, trên cơ sở đó phải chỉ ra những biện pháp để sửa chữa, đây là điều quan trọng hơn. Bây giờ không còn là chuyện chẩn bệnh, mà phải mổ xẻ để tìm ra nguyên nhân và cách chữa.<br />Nói về sa sút phẩm chất đảng viên, cần chỉ ra sự khác biệt hết sức cơ bản về vị trí và hình thức hoạt động khi Đảng là Đảng cầm quyền trong xây dựng đất nước ở thời bình so với thời kỳ hoạt động bí mật và hoạt động công khai trong thời chiến. Khi nắm quyền lực trong tay, khi ngồi trên ghế quyền lực (Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị), nếu không có ý thức tu dưỡng rèn luyện phẩm chất của người cộng sản, nhất là Đảng không có cơ chế phù hợp để kiểm tra, kiểm soát phẩm chất đảng viên, thì sự tha hoá trong không ít đảng viên có chức, có quyền là điều không thể tránh khỏi. Cơ chế phù hợp đó chỉ có thể được xây dựng và thực thi trên căn bản nguyên tắc của Đảng được qui định rõ trong điều lệ của Đảng phải được nghiêm chỉnh chấp hành. Đáng tiếc là, trong một thời gian dài, một số nguyên tắc cơ bản đó đã bị vi phạm ngày càng trầm trọng. Rõ nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng, trong sinh hoạt Đảng, trong triển khai mọi hoạt động công tác của Đảng. Chỉ xin nêu một ví dụ dễ thấy nhất về sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng: đó là cách tổ chức và triển khai Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Cách tổ chức và triển khai ấy, trên thực tế đã làm giảm sút, rồi đi đến vi phạm một nội dung mấu chốt và cực kỳ quan trọng của Điều lệ Đảng, chi phối toàn bộ công tác tổ chức, sinh hoạt Đảng và các hoạt động lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực: “Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp uỷ)”.<br />Qui hoạch để đào tạo, bồi dưỡng, bố trí và đề bạt cán bộ là công việc cần thiết, phải tiến hành thường xuyên và đương nhiên phải thể hiện trong quá trình chuẩn bị và tiến hành đại hội các cấp cho đến Đại hội toàn quốc của Đảng. Trong quá trình quy hoạch và bố trí cán bộ thì việc sắp xếp nhân sự cho bộ máy của Đảng ở các cấp phải có cơ cấu hợp lý cũng là chuyện tất yếu. Song “cơ cấu” không đồng nghĩa với việc tuỳ tiện vi phạm Điều lệ Đảng khiến cho trên thực tế gần như đại hội chỉ còn là thủ tục, khiến cho sức mạnh của Đảng bị giảm sút vì sự chọn lọc, tuyển lựa cán bộ để đưa vào các cấp uỷ không công khai, minh bạch, trong quá trình dân chủ thảo luận của đại hội các cấp. Vì thiếu dân chủ cho nên sự tập trung đã trở thành tập trung quan liêu, dẫn tới sự chuyên quyền, độc đoán của một số tập thể nhỏ.<br />Đây chính là nguy cơ dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng và sự sa sút phẩm chất đảng viên. Hệ quả của nó lá sự bị động tùy thuộc của cấp dưới tuân theo mọi quyết đoán từ bên trên, tạo ra tâm lý lựa gió xoay chiều cốt cho được việc theo ý của trên. Sự dối trá cũng khởi nguồn từ đây. Căn bệnh hình thức phô trương, bệnh thành tích phát triển từ đây. Sự tha hoá, biến chất của không ít cán bộ, đảng viên dẫn tới sự suy yếu của tổ chức Đảng, đánh mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng.<br />Thực trạng này đang diễn ra nghiêm trọng, không thể không nghiêm khắc vạch ra để tìm cách khắc phục. Mà giải pháp cơ bản nhất là trở lại với nguyên tắc của Đảng, kiên quyết thực hành dân chủ trong sinh hoạt Đảng, từ mở rộng dân chủ mà thực hiện sự tập trung. Có dân chủ thì mới có tập trung, và tập trung trên nền tảng dân chủ sẽ không là tập trung quan liêu dẫn đến chuyên quyền vượt mọi quyền hạn và quy định của Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.<br />Trở lại với nguyên tắc Đảng cũng có nghĩa là thực hiện “Tư tường Hồ Chí Minh” về xây dựng Đảng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, bồi dưỡng ý chí cách mạng và phẩm chất cộng sản cho từng đảng viên, từ cơ sở cho đến Trung ương. Đây chính là vấn đề có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp của Đảng ta hiện nay. Làm thế nào trong nội dung tổng kết về lý luận phải dành phần thích đáng cho công tác xây dựng Đảng. Thực ra thì cũng đã có nghị quyết về vấn đề này. “Xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”, là điều thường xuyên được nêu lên trong các diễn văn, các báo cáo, trên các phương tiện truyền thông, cấn có sự tổng kết nghiêm túc.<br />II. Mấy vấn đề về phương pháp tư tưởng<br /><br />Tất cả những vấn đề kể trên, suy cho cùng, là những biểu hiện cụ thể của phương pháp tư tưởng. Nghĩ cho kỹ, thì phương pháp tư tưởng của Đảng đã và đang quyết định đường lối, chủ trương, chính sách và biện pháp đúng hay sai. Nhìn lại toàn bộ lịch sử đấu tranh của Đảng ta, bằng những trải nghiệm của bản thân mình trong 65 năm chiến đấu dưới ngọn cờ của Đảng, có dịp tĩnh tâm suy nghĩ và tự tìm tòi, phân tích, tôi hiểu được rằng, suy cho cùng, những thành tựu cũng như những thất bại mà Đảng gặp phải, dường như phụ thuộc vào hai loại phương pháp tư duy khác nhau.<br />Trong nhiều giai đoạn lịch sử của cách mạng Việt Nam, phương pháp tư duy “tả khuynh”, chủ quan, duy ý chí đã từng giữ vai trò chủ đạo. Chỉ khi nào phương pháp tư duy đó vấp phải những khó khăn, thất bại thì nó mới tạm thời rút lui, để luồng tư duy khách quan, giàu trí tuệ đóng vai trò chỉ đạo, sửa chữa sai lầm và khắc phục hậu quả. Đó chính là những giai đoạn chúng ta đạt được những thành công rực rỡ trong đấu tranh cách mạng cũng như trong phát triển kinh tế.<br />Thử điểm lại các giai đoạn lịch sử, thấy rất rõ diễn biến đó.<br />(Thời kỳ mới thành lập Đảng, xu hướng “tả khuynh” đã là một động cơ của Xô Viết Nghệ Tĩnh và dẫn tới thất bại, lực lượng Đảng bị tổn thất nghiêm trọng. Từ sau đó, Nguyễn Ái Quốc định hướng cho Đảng, đến khi có thắng lợi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương để phục hồi sức mạnh của Đảng. Từ đó, Đảng lại phát triển.<br />(Đến Nam Kỳ khởi nghĩa, lại một xu hướng manh động, “tả khuynh” đã dẫn tới thất bại nghiêm trọng và lực lượng của Đảng bị tổn thất rất nặng nề.<br />(Bác Hồ về Pác Bó, cũng vừa là lúc có chủ trương khởi nghĩa non, Bác đã kịp thời ngăn chặn lại. Bác điều chỉnh lại đường lối, chủ trương, xây dựng mặt trận Việt Minh, sử dụng mọi lực lượng để phát triển phong trào cách mạng, mở các lớp học, phát triển phong trào tới mọi tầng lớp nhân dân, xây dựng vùng giải phóng, không manh động, không nhấn mạnh nội dung giai cấp. Từ đó phong trào cách mạng phát triển rất mạnh và dẫn tới Cách mạng tháng Tám thành công.<br />(Trong kháng chiến chống Pháp, với chủ trương đại đoàn kết do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng, Đảng ta đã huy động được sức mạnh toàn dân, không những kháng chiến thắng lợi mà kiến quốc cũng thành công. Cứ nhìn vào thành phần Chính phủ kháng chiến do Bác Hồ đứng đầu cũng thấy rõ được tầm nhìn xa trông rộng của người lãnh tụ nhân dân. Có thể nói, mãi về sau nay, tuy sự nghiệp cách mạng ngày càng tiến triển thuận lợi, nhưng chưa bao giờ sự tập hợp và phát huy lực lượng nhân sĩ, trí thức lại được rỗng rãi và giàu sức thuyết phục như cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm. Kế tục được bài học của Bác Hồ, trong cuộc kháng chiến ở Nam Bộ, Xứ uỷ Nam Bộ và sau đó là Trung ương cục do đồng chí Lê Duẩn đứng đầu đã biết cách tập hợp lực lượng, phát huy được vai trò của các tầng lớp nhân sĩ trí thức ngoài Đảng đi kháng chiến cùng các tầng lớp nhân dân khác, gây được tiếng vang, góp phần to lớn vào sự nghiệp kháng chiến. Thế nhưng, bài học lớn đó rồi không được tiếp tục mở rộng ra trong quá trình phát triển của các giai đoạn sau.<br />(Từ 1951 trở đi, xu hướng “tả khuynh” lại có chiều phát triển mạnh do sự tác động của các chuyên gia Trung Quốc. Kết quả là chỉnh đốn tổ chức và cải cách ruộng đất đã làm cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và của nhân dân ta gánh chịu những tổn thất vô cùng nặng nề. Chính từ bài học cay đắng đó, cùng với việc xử lý kỷ luật một số cán bộ cao cấp của Đảng, xu hướng “tả khuynh” lại tạm thời lắng xuống. Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương khoá II tháng 12 năm 1956 của Đảng đã phê phán thẳng thắn xu hướng “tả khuynh” này.<br />(Từ đó, kinh tế dần dần phục hồi, nội bộ Đảng được củng cố, những vết thương của sai lầm dần dần được hàn gắn. Chính đây là thời kỳ kinh tế miền Bắc phát triển tốt nhất. Nhưng sau đó không bao lâu, xu hướng “tả khuynh” trỗi dậy đẩy tới những cuộc cải tạo ồ ạt đối với công thương nghiệp và nông nghiệp. Kết quả thế nào thì chúng ta đều biết. Khắc phụ cho được hậu quả của đường lối “tả khuynh”, giáo điều đó khó khăn như thế nào thì cũng đã là bài học cho tất cả chúng ta.<br />(Sau khi giải phóng miền Nam, đã từng có nhiều bộ óc suy nghĩ về việc duy trì một nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế mở, hợp tác quốc tế, sử dụng thị trường. Nhưng sau đó không lâu, với Đại hội IV, xu hướng “tả khuynh”, chủ quan duy ý chí lại thắng thế để đưa ra những quyết định về đường lối và chủ trương sai. Cải tạo công thương nghiệp ồ ạt, cải tạo nông nghiệp vội vã, cải tạo sỹ quan của chính quyền cũ kéo dài quá lâu, đưa dân đi kinh tế mới bằng biện pháp cưỡng bức ....<br />Đó là những nguyên nhân chính dẫn tới khủng hoảng và ách tắc, gây những thiệt hại rất lớn cho kinh tế kể từ 1977 trở đi. Thật là đau đớn khi nghĩ lại, sự nghiệp giải phóng dân tộc được hoàn thành trọn vẹn, thành phố Sài Gòn và nhiều thành phố khác ở miền Nam vẫn còn nguyên kết cấu hạ tầng và tiềm năng về kinh tế hàng hoá, thế nhưng hàng vạn người phải bỏ nước ra đi. Hiện tượng “di tản”, “thuyền nhân” cần được nhìn nhận như là những vết thương trên cơ thể đất nước, để lại những di chứng trong tâm hồn của không ít đồng bào ta.<br />(Khi nền kinh tế và đời sống của nhân dân đã đi đến cùng cực thì những quan điểm giáo điều, “tả khuynh” mới bộc lộ rõ tính bất lực của nó. Đến lúc đó thì những tư duy khách quan, trí tuệ, tỉnh táo hơn đã cứu vớt từng mảng của nền kinh tế. Đó chính là những cuộc phá rào ở các cơ sở và phá rào trong cả đường lối, chính sách ở trung ương.<br />(Nhưng từ 1983, sau khi chỉ mới “hé” cửa, bung ra được một chút, xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại muốn gò lại nền kinh tế, với nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 của Trung ương khoá V, lập lại kỷ cương trong phân phối lưu thông, hàng loạt MEX đã bị dẹp bỏ, tình trạng ngăn sông cấm chợ lại xuất hiện, cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp lại có xu hướng phục hồi.<br />(Đến Đại hội VI, những khuyết tật của xu hướng bảo thủ duy ý chí đã được phê phán một cách gay gắt không kém gì Hội nghị lần thứ 11 của Trung ương năm 1956. Và nhờ đó, kinh tế lần lượt đạt được những bước tháo gỡ rất căn bản. Phải nói rằng, Đại hội VI của Đảng đánh dấu một bước phát triển đột phá trong tư duy lý luận của Đảng, mở đầu bằng đổi mới tư duy kinh tế. Nhờ bước đột phá về tư duy lý luận do dám nhìn thẳng vào sự thật, mạnh dạn nói lên sự thật, dũng cảm phân tích phê phán những sai lầm, nhất là bệnh giáo điều “tả khuynh”, đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng và kéo dài.<br />(Nhưng từ sau 1989, sau khi thu được những thắng lợi rất lớn về kinh tế, từ sự sụp đổ của Đông Âu và sau đó là sự sụp đổ của Liên Xô thì xu hướng giáo điều “tả khuynh” lại phục hồi. Thay vì từ sự sụp đổ của Đông Âu và Liên Xô mà rút ra bài học cho bản thân mình, nhằm đưa tới quyết tâm đẩy mạnh sự nghiệp Đổi Mới mạnh mẽ hơn, toàn diện hơn, triệt để hơn nhằm khắc phục những khuyết tật của mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu và bao cấp dẫn đến sự suy kiệt của nền kinh tế vốn chứa đựng những tiềm năng có thể phục hồi và vươn lên sau 1975, mở rộng dân chủ để tạo ra sự đồng thuận xã hội mới làm động lực cho sự phát triển, lại tự thoả mãn với chính mình trong những luận điểm có phần tự mãn chủ quan là Đảng ta vững vàng về lập trường quan điểm nên mới giữ được thành tựu như đã có (không như Đông Âu và Liên Xô).<br />Dưới cái vỏ bọc của lập trường, quan điểm đó, khuynh hướng “tả” đã dẫn đến sự co lại, kìm hãm tiến trình Đổi Mới mà Đại Hội VI đã khởi động. Hiện tượng chững lại đó trong một số lĩnh vực do được dẫn dắt bởi quan điểm nói trên đã khiến cho chúng ta không tận dụng được đúng mức những thời cơ để bứt lên, cải thiện tình hình kinh tế, thúc đẩy các hoạt động khác của đất nước. Đã xuất hiện quan điểm lo ngại Việt Nam tham gia vào ASEAN, bảo lưu ý kiến không tham gia năm 1995. Không ít những người tự coi là lập trường, quan điểm vững gây không ít cản trở cho sự phát triển bằng những lời phát biểu như: “coi chừng chệch hướng”, “đổi mới nhưng không đổi màu”, “hoà nhập mà không hoà tan” ....<br />Hậu quả vô hình, không đo lường được đó còn kéo dài, chỉ phối cho đến nay khiến cho lợi thế cạnh tranh bị sút giảm, nhịp độ tăng trưởng chưa đáp ứng được đòi hỏi của sự phát triển của đất nước; khoảng cách tụt hậu ngay trong khu vực ASEAN rộng thêm.<br />Dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, phải chỉ ra được nguyên nhân và tác hại của phương pháp tư tưởng “tả khuynh”, giáo điều nói trên, tìm cách khắc phục nó, đó phải là công việc không thể lẩn tránh của công tác tổng kết và lý luận. Gợi lên những vấn đề nói trên, tôi muốn chúng ta cố gắng nhìn lại cả quãng đường Đảng ta đã đi qua, tìm ra nguyên nhân thực chất của những sai lầm đó.<br />Lưu ý đến đặc điểm này để khắc phục và tỉnh táo trước những nguy cơ vấp lại những sai lầm như đã từng vấp. Những vấp váp, trì trệ và sự chững lại trong tiến trình Đổi Mới, nguyên nhân của nguyên nhân có phải chính là xu hướng giáo điều “tả khuynh” vẫn còn tồn tại, muốn co kéo, kiềm chế những tiềm lực phát triển, nhưng lại mang danh nghĩa bảo vệ Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa xã hội, chống chệnh hướng.<br />Công cuộc đổi mới 20 năm qua về thực chất không gì khác chính là sự khắc phục xu hướng này. Khi nào chúng ta nhận thức ra được hệ luỵ của tư tưởng “tả khuynh” và phê phán xu hướng đó thì cả kinh tế lẫn chính trị đều có bước khởi sắc. Khi nào xu hướng này trở lại thế lấn lướt thì sự lệch lạc và trì trệ lại bắt đầu. Về thực chất đó cũng chính là một sự chệch hướng, mà tác hại của nó không kém những chệch hướng khác. Đó là bài học kinh nghiệm lịch sử cần được mạnh dạn đặt ra và phân tích thật cặn kẽ và sâu sắc, đó chính là yêu cầu không thể lẩn tránh của công tác tổng kết.<br />Để khắc phục nguy cơ kể trên, vấn đề có ý nghĩa quyết định là ý chí cách mạng và lập trường kiên định của người cộng sản, đặc biệt là của đội ngũ lãnh đạo.<br />III. Quan hệ giữa quyền lực và dân chủ, giữa lợi ích chung và quyền uy riêng<br /><br />Ở trên đã nói tới nguy cơ của xu hướng bảo thủ, “tả khuynh”, trì trệ. Hiện nay xu hướng bảo thủ trì trệ xét về số lượng thì không nhiều và tự nó khó có thể là một nguy cơ. Đối trọng với xu hướng đó, những bộ óc có xu hướng đổi mới đúng đắn, muốn bứt phá khỏi những gánh nặng cũ, là một lực lượng không nhỏ. Tôi không tin rằng Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban chấp hành Trung ương của ta hiện nay không đủ sáng suốt để nhận thức được những gì cần phải làm trong thời gian trước mắt, những gì đang là trở ngại cần phải được khắc phục trên con đường tiến tới. Nhưng vấn đề ở đây không phải chỉ là chuyện của nhận thức, mà là những quan hệ giữa quyền lực và quyền uy.<br />Quyền lực khác với quyền uy. Về nguyên tắc thì những đồng chí chính thức được Đảng và nhân dân giao phó trọng trách điều hành và quyết định những vấn đề lớn thuộc về vận mệnh quốc gia là những người được trao quyền lực và đang nắm quyền lực. Nhưng quyền uy thì không nhất thiết là thuộc người đang nắm giữ cương vị điều hành. Hiện nay không còn tình trạng nể nang, né tránh của quyền lực trước quyền uy, quyền uy tác động không nhỏ đến quyền lực.<br />Đó chính là nguy cơ. Đọc các văn bản, thấy toát lên một điều là những người viết có ý bứt phá nhưng vẫn bị ám ảnh rất mạnh bởi quyền uy, do đó phải cố gắng làm vừa lòng tất cả mọi người. Vì thế nhiều ý tưởng nêu ra còn mang nặng tính thoả hiệp, nửa vời. Như vậy giải pháp tháo gỡ không chỉ là chuyện nhận thức, mà là bản lĩnh và tính kiên định của những người đang được Đảng và nhân dân giao trách nhiệm quyết định những vấn đề chiến lược của đất nước.<br />Có một nghịch lý tai hại thường diễn ra: nếu bị quy là tả thì cùng lắm cũng chỉ bị phê bình, thậm chí không hề bị phê bình, chỉ cần lẳng lặng sữa chữa là xong. Rất nhiều đồng chí trong Đảng ta đã mắc những sai lầm “tả khuynh” nghiêm trọng, nhưng không bị kỷ luật, vẫn giữ được quyền uy bởi được đánh giá “kiên định lập trường cách mạng”. Ngược lại, những việc gì mạnh dạn đổi mới, không bằng lòng với cải cách đã đạt được, thì lại rất dễ bị chụp mũ là mất lập trường, chệch hướng, xa rời chủ nghĩa xã hội, ăn phải bả của tư bản. Ai bị quy kết như vậy thường khó chống đỡ hơn, thậm chí ảnh hưởng đến cả sinh mệnh chính trị. Do đó, xu hướng chung của đại đa số hiện nay là: một mặt thì tuy đã nhận thức được con đường phải đi, mặt khác lại lo ngại những quy kết chệch hướng. Đó là lý do làm cho khuynh hướng bảo thủ tuy không nhiều, nhưng sức hù doạ còn có ảnh hưởng. Bộ phận đổi mới, cải cách tuy chiếm một tỷ trọng lớn và ngày càng đông hơn, nhưng không đủ sức thu hút được đại đa số trước những sự hù doạ chệch hướng, mất Đảng, mất Chủ nghĩa xã hội.<br />Bởi vậy, theo tôi điều quyết định là phải có một cơ chế đảm bảo cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Trung ương có tính chất độc lập cao hơn nữa trong việc lựa chọn, phân tích và quyết định các vấn đề. Sự tham khảo các ý kiến của các đồng chí lão thành cách mạng còn đủ minh mẫn, sáng suốt, các chuyên gia có trí tuệ, trung thực là rất cần thiết. Kể cả những ý kiến mà các đồng chí đang ở cương vị lãnh đạo không đồng ý cũng đều là những gợi ý góp phần để cân nhắc cho có căn cứ hơn. Nhưng tuyệt đối không vì sự nể nang, không để cho bất cứ một quyền uy nào ngăn chặn sự lựa chọn của các đồng chí. Đó chính là nguyên tắc tổ chức của Đảng. Chúng ta sẽ lựa chọn như thế nào đây, giữa một bên là lợi ích của quốc gia, lợi ích của dân tộc, lợi ích của Đảng và một bên là nể nang và thoả mãn những ý kiến riêng của một thiểu số, mà ở đó lợi ích rất có thể chỉ là lợi ích của quyền uy, sự lo sợ chỉ là sự lo sợ mất quyền uy, ẩn náu sau những sự hù doạ mất Đảng, mất Chủ nghĩa xã hội.<br />Trong sự lựa chọn này, sự can đảm, sự dũng cảm, thẳng thắn và kiên định là rất cần thiết. Trong chiến tranh chống ngoại xâm, nhờ những đức tính đó mà chúng ta chiến thắng và giành được độc lập. Trong sự nghiệp phát triển của đất nước hiện nay, những đức tính đó vẫn là một trong những yếu tố quyết định nhất cho những thắng lợi mai sau.<br />Trên đây là một số ý kiến tôi mạnh dạn và thẳng thắn nêu lên để cùng nhau suy nghĩ, trao đổi thảo luận để làm sáng tỏ chân lý. Cùng nhau chân thành bàn bạc với ý thức trách nhiệm của người cộng sản, mở rộng dân chủ trong tranh luận để nhận thức đúng sai, đó là thái độ cần có để làm cho công tác tổng kết đạt được kết quả mong muốn.<br />Sau đây, tôi trình bày những ý kiến đóng góp cụ thể vào nội dung kinh tế của bảng tổng kết.<br />1. một số nhận xét chung<br />Nhìn chung bản tổng kết này đã cung cấp được khá đầy đủ các số liệu về diễn biến kinh tế trong 10 năm qua ở Việt Nam. Trong đó có nêu bật được nhiều thành tích trong việc phát triển kinh tế, thoát khỏi khủng hoảng, cải thiện cán cân thanh toán, tăng trưởng, đẩy mạnh xuất khẩu, thay đổi cơ cấu kinh tế, đạt được tiến bộ được thế giới công nhận về xoá đói giảm nghèo ...<br />Có một số điểm dưới đây cần lưu ý phân tích rõ thêm:<br />1. Trong việc phân tích những nguyên nhân của tăng trưởng 20 năm qua, bản tổng kết này chỉ nêu lên khá chung 3 yếu tố quan trọng nhất là: Đảng lãnh đạo, phong trào quần chúng và đẩy mạnh đầu tư của nước ngoài cũng như đầu tư trong nước. Nếu chỉ nói ở mức như thế thì chưa thấy hết được những nhân tố đặc thù của giai đoạn này:<br />(Phải đánh giá thích đáng những sự cố gắng của các cơ sở, các địa phương, sáng tạo ra những hình thức để đột phá khỏi mô hình kinh tế cũ. Ngay từ trước 1986, nhiều địa phương đã dũng cảm, năng động, sáng tạo tìm những lối thoát để khắc phục những khó khăn của mô hình kinh tế cũ. Những công cuộc phá rào của Công ty lương thực Thành phố Hồ Chí Minh, của Long An, của An Giang, cơ chế khoán của Đồ Sơn, những đột phá của các xí nghiệp như Dệt Thành Công, đánh cá Côn Đảo, Vũng Tàu, lụa Nam Định .... , là những sự sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Không có những sáng tạo đó, khó có thể dẫn đến đổi mới từ 1986. Bản tổng kết này cần phải ghi nhận công lao của những người tìm đường và mở đường cho công cuộc đổi mới mà Đảng đã tổng kết và nêu lên trong Nghị quyết của Đại hội VI.<br />(Phải tính đến một yếu tố rất quan trọng là có nhiều giá trị bị ngưng đọng trong mô hình kinh tế cũ, khi bước sang thời kỳ đổi mới đã lấy lại giá trị, do đó góp một phần đáng kể vào việc tăng trưởng và nâng cao đời sống của dân cư. Thí dụ rõ rệt là vấn đề nhà đất. Nhà đất trong mô hình kinh tế cũ bị hạ thấp giá trị một cách giả tạo. Bước vào cơ chế thị trường, giá trị của nhà đất tăng lên hàng chục, hàng trăm lần. Đó là một trong những nhân tố tạo ra tăng trưởng, tạo ra thu nhập của một số rất đông dân cư. Từ đó người ta có thể xây nhà, mua sắm, nâng cao mức tiêu dùng .... 2. Một số bài học kinh nghiệm lớn của những năm qua chưa được trình bày và phân tích đầy đủ, nhất là giai đoạn trước đổi mới, giai đoạn 10 năm 1975 – 1986. Do đó chỉ thấy toàn thành tích và thắng lợi, mà không chú ý đến những nguy cơ vẫn còn đe dọa sự phát triển. Kinh nghiệm của giai đoạn trước đổi mới cho chúng ta một bài học lớn là: có rất nhiều những cái mới, cách làm khác với nếp cũ, sáng tạo, đột phá..., thường đã từng bị ngộ nhận là chệch hướng, là nguy hiểm .... Cách sử xự như thế với những cái mới đã từng có tác dụng kiềm chế sự phát triển, kéo dài thêm khủng hoảng.<br />Từ kinh nghiệm đó cần rút ra bài học trong chính sách kinh tế hiện nay và mai sau là cần phải trân trọng những cái mới, phải khuyến khích những tìm tòi, những hướng đi mới, không nên khư khư giữ nếp cũ hoặc thoả mãn với những gì làm được. Nếu chỉ sợ chệch hướng theo một đánh giá nào đó thì thực tế cầm chắc sẽ là tụt hậu. Vào thời kỳ trước 1986, tất cả những mũi đột phá sáng tạo đều đã từng bị những quan điểm bảo thủ quy kết là chệch hướng, mất Chủ nghĩa xã hội, mất Đảng ... Hay thử tưởng tượng xem, nếu trong những năm gian nan ấy, mà những quy kết đó không kiên trì khắc phục, thì mọi mũi đột phá đều bị ngăn cản. Như vậy, Việt Nam có vượt qua được khủng hoảng và bước vào thời đổi mới toàn diện không?<br />Từ kinh nghiệm đó, chúng ta phải thẩm tra xem ngày nay đang có những gì cần phải tiếp tục tìm tòi, phải biết tìm mọi cách phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tạo động lực mới để bứt phá, tìm ra những hướng sáng tạo mới trong các bước đi để bắt kịp được nhịp phát triển của thời đại. Cần phải rạch ròi và sòng phẳng chỉ ra những hướng đi đang còn bị ngộ nhận và quy kết đơn giản là chệch hướng, liệu có đúng là chệch hướng không .... Điều này trong bản báo cáo còn quá mờ nhạt. Chẳng lẽ, phải đuổi kịp với thiên hạ là chệch hướng, để đất nước tụt hậu ngày càng xa là đúng hướng. 3. Tổng kết 20 năm qua và dự kiến cho 5 năm sắp tới mà chưa đề cập đến nơi đến chốn về một sự thách đố rất lớn là: làm sao kinh tế Việt Nam vươn ra thị trường khu vực và thị trường thế giới, là xác định vị trí của Việt Nam so với các nước trong khu vực. Chúng ta sẽ bị thua thiệt hoặc sẽ tụt hậu nếu trong sự hội nhập sắp tới, Việt Nam chỉ để cho người ta vươn vào mà không tính đến chuyện vươn ra một cách tích cực. Đó là vấn đề cần phải xem xét kỹ hơn.<br />Dưới đây xin nêu một số điều cần lưu ý trong tổng kết về đổi mới kinh tế:<br />2. Những vấn đề và những thách đố<br />Những thành tựu to lớn kể trong bản tổng kết kể trên là một cái vốn rất cơ bản cho các bước đi sắp tới. Tuy nhiên hoàn toàn không thể thoả mãn với những thành tựu đó. Rất nhiều ưu thế và thành tựu của nền kinh tế từ thời kỳ sau đổi mới chưa có được những cơ sở vững vàng. Chúng ta chưa thể thoả mãn với mức tăng trưởng 7 - 8 %/năm, với những chỉ tiêu xuất khẩu khá cao, số lượng đầu tư khá lớn ....<br />Từ những thành tựu kể trên, rất cần phải phân tích sâu hơn vào thực chất, nhìn thẳng vào sự thật, xác lập một tầm nhìn xa hơn, rộng hơn về những vận hội cũng như những thách thức, những nguy cơ, cạm bẫy đang và sẽ đặt ra cho những năm sắp tới.<br />Có thể kể đến mấy vấn đề sau đây:<br />1. Sự phát triển kinh tế của chúng ta vẫn tiếp tục lệ thuộc một chiều và quá mức vào thế giới bên ngoài. Trước cách mạng, kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào chính sách của thực dân Pháp. Sau cách mạng, trong kháng chiến và cả sau khi giải phóng miền Nam, nền kinh tế của chúng ta lại lệ thuộc vào viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa. Bây giờ ta đã chuyển từng bước sang xây dựng một nền kinh tế tự chủ. Người Việt Nam đã thực hiện được nguyên lý “sống bằng cái mình làm ra”. Tuy nhiên, hiện nay, để chúng ta sống được (sống hiểu theo nghĩa rộng), chúng ta vẫn lệ thuộc một chiều và quá mức về nhiều mặt vào thế giới bên ngoài: lệ thuộc về vốn đầu tư, làm gia công và lệ thuộc vào thương hiệu của các công ty nước ngoài. Nếu vì một tình hình chính trị xã hội nào đó mà các nhà đầu tư rút vốn, thì nền kinh tế Việt Nam sẽ rất dễ lâm vào tình trạng bị động không ít nguy hiểm. Điều quan trọng là chúng ta chưa biết phát huy hết năng lực cạnh tranh của nền kinh tế quốc dân, của doanh nghiệp và sản phẩm dịch vụ còn thấp, làm cho Việt Nam chịu thua thiệt trong quá trình hội nhập.<br />Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay, không có nước nào là không có sự lệ thuộc vào thế giới bên ngoài, các quốc gia lệ thuộc lẫn nhau. Vấn đề là ở chỗ làm sao chuyển từ lệ thuộc một chiều và thụ động sang sự lệ thuộc hai chiều và chủ động. Trên hướng đó, chúng ta chưa làm được bao nhiêu.<br />2. Những thách đố trong cuộc đua trên thị trường thế giới hiện nay đang đặt ra cho Việt Nam nhiều vấn đề. Lợi thế cạnh tranh của Việt Nam hiện nay rất kém. Nhiều mặt hàng Trung Quốc rẻ hơn và tốt hơn hàng Việt Nam. Trong những lĩnh vực dệt may, chế biến nông sản, thủ công mỹ nghệ, điện máy .... Việt Nam chưa ganh đua nổi với thế giới, thậm chí cũng chưa ganh đua nổi với các nước khác ngay trên thị trường Việt Nam. Không chỉ trong lĩnh vực như xuất khẩu hàng hoá, mà cả trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, nhiều nước trong khu vực vẫn có ưu thế hơn Việt Nam.<br />Cũng phải tính rằng hiện nay tốc độ tăng trưởng của Việt Nam là khả quan. Nhưng trong cuộc đua này không chỉ có vấn đề tăng trưởng. Nhiều nước trong khu vực đang có những bước tiến mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực như cải cách thể chế, mở rộng thị trường, thu hút đầu tư, cải tiến công nghệ, tăng khả năng hội nhập và ứng phó với thị trường thế giới .... Về những mặt đó, chúng ta vẫn đang thua kém nhiều nước trong khu vực.<br />3. Cho đến nay Việt Nam vẫn chưa có được những mũi nhọn về kinh tế trên thị trường thế giới. Hàng chục năm qua, chúng ta đã từng rất cố gắng tìm kiếm những mũi nhọn. Nhưng có lẽ chính vì chúng ta xác định những mũi nhọn không đúng nên đến nay chúng ta bị méo mó về mặt kinh tế, không có nổi những cái gọi là mũi nhọn thực sự. Đi vào thị trường thế giới mà không có những mũi nhọn kinh tế thì khó có thể nói đến một sức mạnh lâu bền. Tính chất lệ thuộc, tính chất bị động trong một chừng mực rất lớn cũng chính là vì chúng ta không có điểm mạnh, không có mũi nhọn.<br />4. Về công nghiệp, chúng ta đã có những bước phát triển khá. Trong thời kỳ công nghiệp hoá theo mô hình cũ, chúng ta không thành công bao nhiêu, mặc dầu đầu tư lớn. Từ thời kỳ đổi mới, công nghiệp đã có những khởi sắc theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng cho đến nay tất cả nền công nghiệp của Việt Nam vẫn chỉ là công đoạn 2 của nền công nghiệp thế giới. Việt Nam chưa có nổi một hệ thống công nghệ đầu nguồn. Nói đến công nghiệp như cơ sở để phát triển kinh tế, như xương sống của một quốc gia, thì phải nói đến công nghệ đầu nguồn. Không nắm được công nghệ đầu nguồn thì vĩnh viễn lệ thuộc vào những nước có công nghệ đó. Chính đây là vấn đề của công nghiệp hoá hiện nay.<br />5. Nông nghiệp chúng ta có mức tăng trưởng rất khá và đạt được những thành tựu đáng kể. Nhưng hiện nay đang vấp phải những vấn đề về quan hệ xã hội, đặc biệt là quan hệ đất đai. Những vấn đề về sở hữu đất đai còn rất nhập nhằng, do đó trong nông nghiệp vẫn chứa đựng tiềm tàng những khả năng bùng nổ rối loạn trong quan hệ xã hội và chính trị.<br />Nông nghiệp còn có một vấn đề nữa là hiện nay vẫn chỉ phát triển theo chiều rộng. Chưa có được những liên kết theo ngành dọc, như kiểu mô hình mía đường Lam Sơn, nông trường sông Hậu. Chừng nào chưa cơ cấu lại nông nghiệp theo mối liên kết ngành dọc như ở các nước Tây Âu, chẳng hạn như có người giới thiệu với tôi về “hệ thống filiere” ở Pháp, và sau đó tôi có dịp tham quan một hợp tác xã ở một tỉnh của Pháp nhân chuyến đi thăm Pháp năm 1994 và thấy rõ đây như là một tổ hợp lớn rất tự chủ. Sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh của nông nghiệp vẫn còn là một vấn đề. Anh em nghiên cứu cho biết Mác từng nói về cách làm kinh tế nông nghiệp có hiệu quả trong chủ nghĩa tư bản; Lê nin phân tích thêm: một trại chủ có đất đai của mình, có công nghệ của mình, có lao động của mình (thuê nhân công) và có thị trường của mình - đó là mô hình mà chúng ta vẫn đang hình thành một cách rất nham nhở về nhiều phương diện. Có thể nói, hiện nay nông nghiệp, nông thôn và nông dân đều có vấn đề cần phải giải quyết một cách cơ bản.<br />6. Đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam trong những năm qua là khả quan. Nhưng hầu hết đó là những nhà đầu tư cỡ nhỏ và trung bình. Việt Nam có quá ít những nhà đầu tư cỡ lớn có tầm ảnh hưởng quốc gia và quốc tế. Chính những công ty đầu tư vốn lớn đó là những lực lượng ảnh hưởng mạnh tới thái độ của chính phủ nước họ. Chỉ khi nào đã có những nhà đầu tư cỡ lớn đó, thì thái độ của các chính phủ đối với Việt Nam mới khác đi. Đó cũng chính là một trong những giải pháp để tìm cách “khoá nhau”, “cài nhau” trong các quan hệ quốc tế.<br />7. Nơi chứa đựng những bệnh tật nặng nề nhất của Việt Nam chính là hệ thống ngân hàng tài chính và tiền tệ. Có thể nói quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước ngân hàng – các xí nghiệp quốc doanh đang chứa đựng nhiều tiêu cực, nhiều sai phạm, làm méo mó nền kinh tế. Nếu hội nhập, nếu vào WTO, thì những tiêu cực này càng bộc lộ rõ ra. Nếu chúng ta không tự xử lý trước, để quốc tế xử lý, thì hậu quả sẽ rất nặng nề, không chỉ về mặt kinh tế mà về cả mặt chính trị.<br />8. Trong công cuộc đổi mới đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội và văn hoá nhức nhối và bức xúc: Những tệ nạn xã hội và tình trạng tham nhũng đã làm méo mó các quan hệ kinh tế. Rất nhiều những lợi ích kinh tế này sinh trong quá trình đổi mới đã bị “ăn hót” bởi những bàn tay tham nhũng, nhân danh quyền lực nhà nước.<br />Cùng với những tệ nạn này, là bước chuyển hoá của những nhà kinh doanh từ đậm đà lý tưởng sang quá ham lợi ích. Hiện nay, Việt Nam không còn những nhà kinh doanh đầy lý tưởng như Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Đỗ Đình Thiện, Trịnh Văn Bô, Kha Vạn Cân .... Cuộc cải tạo công thương nghiệp đã bóp chết những lý tưởng đó. Phục hồi lại nó không phải là điều dễ dàng. Kinh doanh mà không tính đến lợi ích thì không còn là kinh doanh. Nhưng kinh doanh mà chỉ vì lợi ích thì sẽ chứa sẵn trong nó không ít nguy cơ.<br />9. Sự bất cập của hệ thống các thiết chế kinh tế, của bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ các chuyên gia.<br />Chúng ta đã có những cố gắng rất nhiều trong việc sửa đổi và hoàn thiện hệ thống các thiết chế. Nhưng tốc độ đó không theo kịp tốc độ phát triển của kinh tế và những thay đổi tình hình của thế giới mà chúng ta đang hội nhập.<br />Bộ máy nhà nước hiện nay vẫn rất bất cập trong việc xử lý các vấn đề kinh tế. Đội ngũ chuyên gia đầu đàn của chúng ta tuy đã được đào tạo nhiều năm rất công phu, vừa qua cũng đã được đổi mới rất nhiều, nhưng cho đến nay đó vẫn là một đội ngũ còn ít khả năng tư duy kinh tế, nhìn xa trông rộng, lượng định những vấn đề và lựa chọn những giải pháp khôn ngoan. Các cơ quan nghiên cứu của chúng ta cũng lâm vào tình trạng những “mỹ viện”. Việc mổ xẻ những vấn đề kinh tế chưa đến chốn hoặc chưa được khuyến khích nêu lên những suy nghĩ trung thực. Trong khi đó thì các tổ chức quốc tế thường chỉ đưa ra các “kịch bản” hơn là những chương trình thiết thực với Việt Nam.<br />Hầu hết các nhà nghiên cứu Việt Nam đều lệ thuộc vào kinh phí của các “kịch bản” đó. Nhiều nhà khoa học trong các viện nghiên cứu của Việt Nam, trong số đó có những cán bộ được đào tạo rất có bài bản từ nhiều trường Đại học và Viện nghiên cứu nổi tiếng của nước ngoài, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ tốt, song vẫn chủ yếu đi làm thuê cho các tổ chức nước ngoài. Các tổ chức này khôn khéo khai thác và sử dụng những chuyên gia của Việt Nam vì họ vừa có trình độ cao vừa am hiểu tình hình Việt Nam mà tiền thù lao lại thấp so với lương của người nước ngoài đến đảm trách công việc này. Đây là một sự lãng phí rất lớn, nhiều cán bộ khoa học đã xót xa trình bày nhiều lần trong tổ chức song tình hình vẫn chưa được cải thiện.<br />Có thể nói cả bộ máy quản lý, bộ máy hoạch định chiến lược và bộ máy tham mưu của chúng ta vẫn không thay đổi bao nhiêu, vẫn rất già cỗi về mặt cơ chế và về phương pháp tư duy. Đã có nhiều cán bộ tâm huyết lo âu đặt tên cho tình trạng đó là tình trạng “nhũn não”. Đó là một nguy cơ lớn của đất nước.<br />Trong nguy cơ “nhũn não” này, có vấn đề quan hệ giữa chính trị với khoa học. Các nhà nghiên cứu của ta hiện nay vẫn bị ám ảnh bởi thân phận không mấy tốt đẹp trước đây của những người có tư duy độc lập. Cách đối xử của lãnh đạo đối với khoa học vẫn chưa khắc phục hết tình trạng đặt hàng, viết theo những ý kiến chỉ đạo trước. Mối quan hệ đó hạn chế khả năng tìm tòi, khai phá, mà rút cuộc là có hại cho Đảng.<br />10. Nguyên nhân của các nguyên nhân kể trên chính là bản lĩnh của đội ngũ lãnh đạo từ cấp trung ương đến địa phương. Có lẽ phải kiểm điểm, soát xét sâu và kỹ cách tuyển dụng nhân tài và chính sách cán bộ. Trước đây, trong cuộc đọ sức với thực dân Pháp, giữa nhiều lực lượng khác nhau, nào Trốt-kít, nào Quốc Dân đảng, nào Bảo Hoàng ..., những người lãnh đạo đàn anh của chúng ta đã tỏ ra xuất chúng về tinh thần đấu tranh cách mạng, vững vàng bất khuất trong các nhà tù, sáng suốt trong việc xác định đường lối đấu tranh, trong lãnh đạo quần chúng ...., và do đó được lịch sử lựa chọn như đội quân tiên phong của sự nghiệp cách mạng. Nhưng sau khi Đảng ta được lịch sử lựa chọn, chúng ta đã tự lựa chọn mình theo phương pháp khép kín. Điều đó tưởng như là một cách tốt nhất để bảo vệ Đảng, bảo vệ đội ngũ cán bộ, thì thực ra có thể nó đã dẫn tới sự còi cọc. Nếu không nhìn thẳng vào sự thật đó để sửa chữa thì sự còi cọc này còn kéo dài. Nguy cơ cũng là ở chỗ đó.<br />Do thiếu tự tin nên thời gian qua, Đảng ta mất khả năng quyết đoán với một tư duy đổi mới trước những vấn đề cấp bách, vì thế đã bỏ lỡ không ít cơ hội. Vụ không ký hiệp ước thương mại với Mỹ ở New Zeeland, không vào WTO trước Trung Quốc một bước thể hiện sự ngập ngừng đó. Cứ như thế này thì rồi ra những nước khác sẽ lợi dụng sự chậm chân của ta để nhích lên một nước cờ cho họ.<br />3. Suy nghĩ về một số định hướng cho tương lai<br /><br />Bàn về những giải pháp cho tương lai không phải là điều dễ dàng. Một cá nhân càng không thể nào hoạch định được một chiến lược quốc gia, cùng lắm thì cũng chỉ là gợi mở những suy nghĩ để tham khảo trong việc hoạch định chiến lược đó. Dưới đây là mấy gợi mở theo ý nghĩa như vậy.<br />Trước khi đề xuất những ý kiến khác nhau để cân nhắc, có một số ý yếu tố rất cơ bản sau đây mà dù lựa chọn chiến lược nào thì cũng phải có:<br />1. Phải tăng cường và thay đổi lại định hướng tình báo kinh tế.<br />Tình báo kinh tế cho đến nay vẫn được hiểu là một hành động địch ta. Phương thức đó đã lỗi thời, tuy không phải là không cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Bây giờ nội dung quan trọng nhất của nó (về kinh tế) không còn chuyện địch ta, mà là chuyện hợp tác. Trước đây, phần lớn các nước thường sử dụng tình báo kinh tế theo hướng đánh cắp thông tin của đối phương, bảo vệ bí mật kinh tế của mình. Từ vài thập kỷ trở lại đây, nhiều nước đã có những chuyển biến lớn. Trong đó có Anh, Trung Quốc, Nhật là những nước đi đầu. Có nhà khoa học nói với tôi, chữ “economic intelligence” phải được hiểu như là sự thám thính mọi nơi trên thế giới để tìm ra những cơ hội, những kẽ hở nhằm phát triển kinh tế quốc gia. Như vậy, công tác tình báo không nhất thiết là phản gián, mà thực chất là những hoạt động khai phá, thăm dò và hoạch định chính sách.<br />Về mặt này, Việt Nam còn rất yếu. Nếu chúng ta định mở rộng quan hệ với thế giới, ta không thể không nắm bắt được những vận hội ở những nước mà ta muốn quan hệ, phát triển những khả năng đầu tư, xuất khẩu, nhập khẩu, hợp tác. Ngoài ra còn rất cần phải nắm vững luật pháp, xu hướng chính trị, những dự kiến trong tương lai của đối tác.<br />Công tác tình báo kinh tế theo hướng này không nhất thiết phải để ở Bộ Công an. Có thể đặt nó ở Bộ Ngoại giao, phối hợp với các sứ quán nhưng cũng có thể để ở một cơ quan nghiên cứu. Quy mô của tổ chức này không cần lớn. Quan trọng nhất là những “cái đầu” thông minh và nhạy bén cảm nhận được mọi cái mới trên toàn cầu.<br />Để làm việc đó cần có 3 điều kiện rất quan trọng: 1/ Tập hợp thông tin. 2/ Độc lập trong việc xử lý các thông tin trao đổi với những người hữu quan, kể cả phía đối tác. 3/ Đưa ra những dự kiến có tính chất tiền chính sách.<br />Có thể nói rằng một bộ phận như thế chưa có ở Việt Nam. Như thế là quá muộn nhưng muộn còn hơn không. Phải bắt đầu nghĩ tới một tổ chức mang chức năng như trên.<br />2. Phải hình thành một mạng lưới vận động lobby.<br />Không có một nước nào trên thế giới muốn phát triển kinh tế mà lại không có lobby. Hoạt động này ở Việt Nam tuy đã có, nhưng cho đến nay còn rất yếu. Mạng lưới này cần phải được giăng ra gần như khắp thế giới. Không nên hiểu rằng khi cần giải quyết vấn đề ở nước nào thì phải có hoạt động lobby ở nước đó. Thông qua những nước khác, thông qua toàn đại sứ của các nước khác, có thể làm được việc này. Đây là một nghệ thuật, là một khoa học, mà cho đến nay chúng ta còn rất ít chú ý. Những vụ như cá ba sa, nước đến chân chúng ta mới nhảy, làm lobby không kịp. Trong những quan hệ với Trung Quốc, chúng ta hầu như không có lobby. Với chính phủ Nhật, hoạt động này còn hết sức sơ sài, tuy không phải không có những khả năng thuận lợi.<br />Một trong những chỗ dựa trong lĩnh vực lobby là Việt kiều. Có lẽ khía cạnh hữu ích của Việt kiều không phải chỉ là vốn đầu tư, cũng không phải chỉ là những kiến thức về kinh tế, khoa học kỹ thuật, mà là những khả năng và kinh nghiệm lobby của họ. Về mặt này, trong chính sách với Việt kiều chúng ta chưa lưu ý đúng mức. Kể cả đối với những người Việt Nam chống cộng, ta cũng có thể dùng như những con dao hai lưỡi. Họ có thể có ích cho chúng ta vì họ có ảnh hưởng chính trị trong một giới nhất định ở phương Tây. Nếu khéo lợi dụng thì không phải họ không có khả năng làm lobby một cách vô thức cho ta.<br />3. Phải dọn dẹp môi trường kinh tế trong nước.<br />Như đã nói ở trên, công cuộc đổi mới về cơ bản là một thành tựu rất lớn, nhưng vẫn còn tồn tại từ di sản cũ và có nảy sinh thêm một số hiện tượng gây ô nhiễm môi trường kinh tế. Trong đó không chỉ có tình trạng tham nhũng, mà còn có những trục trặc về thể chế, về luật pháp, về tập tục. Nếu không thanh toán được những sự ô nhiễm đó, khó có thể kêu gọi đầu tư, du lich, hợp tác, ở tầm cỡ lớn.<br />Về điều này, hình như chúng ta còn chưa có được một sự thẳng thắn thừa nhận mà vẫn ít nhiều còn thái độ lảng tránh.<br />4. một số gợi ý về chủ trương để tham khảo<br />1. Phải rèn tập cho xã hội Việt Nam một thói quen của đời sống dân chủ.<br />Trong đó quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do nghiên cứu... cần được mở rộng hơn nữa. Hiện nay có nhiều vấn đề thực ra không còn đang coi là huý kỵ nữa, nhưng vẫn là nghiêm cấm đối với giới nghiên cứu. Tại sao ở Trung Quốc có thể làm phim về thời Cách mạng văn hoá mà ở Việt Nam không thể viết chuyện, làm phim về thời kỳ cải cách ruộng đất, cải tạo tư sản. Văn kiện công khai của Đảng đã phê phán những sai lầm đó. Sự kiêng kị này sẽ có tác hại giống như một con người không quen với sương gió, bị giam kín lâu ngày trong nhà, khi đi ra đường rất dễ bị cảm cúm. Chúng ta phải từng bước tháo gỡ những kiêng kị. Phải làm sao để cho xã hội Việt Nam có sức đề kháng cao với việc phê phán tất cả những sai trái. Những huý kị hiện nay tưởng là cách bảo vệ tốt cho hệ thống chính trị của chúng ta, thực ra nó là một cách giữ gìn có tính chất bị động, không tháo gỡ ra mà chỉ che dấu sự thật, tạo thêm ra những ung nhọt trong nội bộ.<br />2. Thay đổi chỗ dựa quốc tế, nói đúng hơn là thay đổi cách dựa trong quan hệ quốc tế.<br />Trước đây, Việt Nam tìm chỗ dựa trong phe xã hội chủ nghĩa. Trong kháng chiến chống Pháp chỗ dựa trước hết là Liên Xô và Trung Quốc. Trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ, Việt Nam tìm chỗ dựa ở phe xã hội chủ nghĩa, ở phong trào giải phóng dân tộc. Trong một chừng mực đáng kể ta đã thúc đẩy được phong trào phản chiến và tạo ra được chỗ dựa rất quan trọng ở ngay các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là một sự lựa chọn tài tình, sáng suốt ít có trên thế giới.<br />Ngày nay, khi thế giới hai cực không còn nữa, thì Việt Nam cũng như hầu hết các nước khác khó còn có thể tìm được một chỗ dựa cụ thể ở một nước nào, một phe nào.<br />Chỗ dựa và cách dựa bây giờ khác đi. Bây giờ không phải đi tìm một cường quốc nào đó, mà là cài đặt những lực lượng khác nhau vào một thế thuận lợi cho Việt Nam. Cách đó nhiều nước đã làm.<br />(Nhật trước đây cũng từng dựa vào Mỹ, lấy việc đối đầu với Liên Xô để đòi Mỹ trả công về nhiều phương diện. Bây giờ chỗ dựa kiểu đó cũng không còn. Nhật đã cài đặt các mối quan hệ giữa các nước đó với nhau, khai thác các mâu thuẫn, củng cố các mối quan hệ bằng lợi ích song phương, tạo ra lợi ích cho đối phương để tìm kiếm lợi ích từ đối phương.<br />(Trung Quốc cũng vậy. Từ chỗ đối đầu với Mỹ chuyển sang dựa vào Mỹ để đối đầu với Liên Xô, đến nay Trung Quốc cũng không còn tìm một chỗ dựa nào khác ngoài việc lợi dụng các mối quan hệ quốc tế. Trung Quốc đã cài đặt những quan hệ với Mỹ bằng cách xuất nhập khẩu hàng hoá rẻ, tạo ra ở Mỹ một thói quen và một nhu cầu về nhập hàng Trung Quốc, về đầu tư ngay trên đất Trung Quốc, về xuất khẩu sang Trung Quốc. Lợi ích đó của tư bản Mỹ đã khoá tay chính giới Mỹ trong nhiều trường hợp. Đó là cách dựa mới.<br />(Tây Âu cũng vậy. Việt Nam cần đi theo cách đó. Tình thế của Việt Nam khác với các cường quốc. Việt Nam là một nước tương đối nhỏ, thế lực kinh tế không lớn, thị trường không hấp dẫn tới mức không có không được. Do đó, cách xử lý của Việt Nam phải hết sức tinh vi, phải nghiên cứu kỹ càng, tính toán nhiều bề. Những khả năng đó không phải là không có. Ta đã có một bài học lịch sử là đối sách của Chủ tịch Hồ Chí Minh thời kỳ 1945 –1946. Thực lực của Việt Minh chưa có gì lớn. Nhưng Hồ Chí Minh đã cài đặt được một tình thế quốc tế thuận lợi cho Việt Minh. Dùng những lực lượng OSS của Mỹ để hăm doạ quân Tưởng Giới Thạch. Kéo Bảo Đại vào làm Cố vấn Chính phủ để làm mất một chỗ dựa của các lực lượng khác. Đưa Quốc dân đảng vào Quốc hội để vô hiệu hoá một phần lớn khả năng đối lập của họ. Ký Hiệp ước với Pháp để đuổi quân Tưởng ra khỏi đất nước, tránh mối nguy cơ lớn nhất lúc đó, đồng thời trì hoãn một cuộc chiến không thể tránh khỏi với Pháp.<br />Việt Nam ta hiện nay phải lựa chọn: Hoặc không có một chỗ dựa nào nữa, hoặc phải tìm một tình thế quốc tế tối ưu cho mình. Về điều này, cần phải có một đội ngũ chuyên gia giỏi, có tri thức rất tốt về tình hình quốc tế, biết tính toán rất kỹ các phương án. Không thể chỉ nói như là đã giải quyết được vấn đề.<br />Trên hướng này có thể nêu một ý tưởng như sau làm thí dụ:<br />Tìm cách lôi kéo một số công ty rất lớn của phương Tây, những công ty có tầm ảnh hưởng lớn đến chính sách đối nội cũng như đối ngoại của các nước mà công ty mang quốc tịch. Nếu lôi kéo được những công ty này vào cuộc, thì có khi về kinh tế chưa chắc có lợi ngay, nhưng sẽ được những cái lợi lớn hơn về chính trị và quan hệ quốc tế. Để làm việc này phải vận dụng cả ba yếu tố “cần” kể trên: tình báo kinh tế, làm lobby, dọn dẹp môi trường. Nếu làm tốt các yêu cầu đó, ta có thể cài đặt những mâu thuẫn giữa họ với nhau, giữa họ với những người khác, để làm sao kích thích sự tranh giành uy tín, qua đó mà họ gắn bó với ta. Quan hệ kinh tế đơn thuần giữa các công ty này (liên quan đến thị trường Việt Nam) có khi chỉ để giải quyết những ảnh hưởng khác trên thị trường quốc tế, thì Việt Nam lại là một vấn đề, do đó trọng lượng của ta được nâng lên, từ đó có được những tầm ảnh hưởng nhất định tới các chính phủ phương Tây.<br />3. Phải tìm hiểu nhiều cách khác nhau để nâng tỷ lệ thu hồi giá trị sản phẩm của Việt Nam trong giá trị của các sản phẩm liên doanh.<br />Chúng ta biết, thí dụ như trong ngành dệt may, 80% nguyên vật liệu là nhập khẩu. Do đó, cũng khoảng 70-80% giá trị của một chiếc áo, một chiếc quần là vào tay người nước ngoài. Nếu tính trên con số thống kê về GDP hoặc sản phẩm xuất khẩu thì có vẻ rất cao, nhưng phần mà người Việt Nam được hưởng không phản ánh đầy đủ trong đó. Trên rất nhiều lĩnh vực, kể cả những hàng nông sản xuất khẩu, vẫn còn một tỷ lệ rất cao của giá sản phẩm là thuộc về những công ty ngoài Việt Nam. Nếu chúng ta lọc dầu sớm hơn, thì dầu thô có thể chuyển thành dầu thương phẩm và chúng ta đỡ một khoản tiền rất lớn trong nhập khẩu. Nhờ đó trong giá bán của hàng loạt sản phẩm Việt Nam, tỷ lệ năng lượng sẽ không thuộc các công ty nước ngoài, mà sẽ thuộc GDP thực sự của Việt Nam.<br />Trong lĩnh vực dệt may, chúng ta vẫn nấp bóng những công ty lớn có uy tín trên thị trường quốc tế để đưa hàng của chúng ta vào. Theo cách đi đó, chúng ta chỉ kiếm được 15-20% giá trị của mỗi cái áo, cái quần. Để thoát khỏi thân phận ấy, không phải chi đơn giản là làm ra những mặt hàng đẹp, nguyên liệu tốt. Vấn đề là thương hiệu của Việt Nam. Nhưng cái làm nên thương hiệu thì không phải chỉ là chất lượng sản phẩm. Nó là loại “nhân duyên” của rất nhiều yếu tố. Việt Nam phải suy nghĩ, tính toán, điều tra và khám phá để tìm ra những mối “nhân duyên” này. Hướng đó không phải là không khả thi.<br />4. Khai thác tiềm lực có sẵn với cách nhìn mới. Để tìm kiếm những sức mạnh nội lực, trước đây và cho đến nay chúng ta vẫn hướng theo cách đi tìm những khả năng mới, những tiềm lực mới, những tài nguyên mới ....Thiết nghĩ từ nay, đồng thời với việc tìm cái mới, cần “khai thác” một “tiềm lực” rất to lớn đã có sẵn, nhưng bị chiếm đoạt. Tiềm lực đó không cần tìm ở đâu xa mà có thể giành lại ngay cho đất nước, cho nhân dân, cho nền kinh tế, cho xã hội: Đó là những của cải, những nguồn tài nguyên rất lớn đã bị nạn tham nhũng vơ vét, tệ lãng phí hủy hoại.<br />Tham nhũng ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước khác, nhất là các nước XHCN cũ, phát triển dưới hai dạng đều rất nguy hiểm: a. Tham nhũng của cải vật chất thông qua quyền hành. b. Tham nhũng những giá trị trí tuệ, những danh vị cao quí bằng chủ nghĩa cơ hội. Những giá trị đó là nguồn sức mạnh rất to lớn của đất nước. Tiềm năng đó đã bị đánh cắp một cách phi pháp. Phải kiên quyết giành lại cho xã hội những giá trị này. Chỉ riêng việc đó cũng tạo ra một sức mạnh rất lớn về nội lực.<br />Vừa qua Chính phủ đã thành lập một cơ quan chống tham nhũng. Nhưng đó mới là cơ quan chống tham nhũng về kinh tế. Còn một thứ tham nhũng nữa là tham nhũng về danh tước, chiếm lấy những cương vị bằng cách chạy vạy, mua bán. Như đã nói, rất nhiều danh vị giáo sư, tiến sĩ, phó tiến sĩ, thạc sĩ ...., không có thực chất, thực tài. Đưa những con người như thế vào các vị trí điều hành đất nước, điều hành những cơ quan ở cấp đầu não của quốc gia thì thật là nguy hiểm.<br />Đương nhiên cả hai loại tham nhũng kể trên hiện nay đang có cương vị đáng kể trong xã hội. Họ sẵn sàng cao giọng bảo vệ chế độ, tích cực chống bọn phản động tấn công vào Đảng, vào chủ nghĩa xã hội! Thực ra là họ sợ hãi cho lợi ích bất chính của họ. Nếu tiến hành chống hai loại tham nhũng này, có thể những loại người này từ chỗ kiên quyết bảo vệ Đảng, bảo vệ CNXH chuyển thành phần tử bất mãn. Đó là điều cần tính toán cẩn thận.<br />5. Về những mũi nhọn trong phát triển kinh tế. Nếu trên thực tiễn kinh tế chưa có mũi nhọn, thì không nên miễn cưỡng đặt ra ngay những mũi nhọn. Phải có thời gian và công sức đích đáng để tạo ra mũi nhọn.<br />6. Rất cần chú ý tới mối liên kết chặt chẽ với các nước khối ASEAN.<br />Ở trên có nói rằng thời đại ngày nay thế giới không còn chia làm hai cực nên không còn chỗ dựa, hiểu theo nghĩa thời chiến tranh lạnh. Hiện nay, trong thực tế, chúng ta chỉ có ASEAN là chỗ dựa trực tiếp. Thời gian vừa qua, chúng ta chưa chú ý đúng mức để khai thác khả năng này. Với các nước ASEAN, ngoài các quan hệ kinh tế chúng ta cần tạo ra những lợi ích văn hoá và chính trị của các nước đó để “phòng co”. Trong quan hệ với các nước này, không nhất thiết phải quá chú ý tới những lợi ích kinh tế. Có khi Việt Nam chịu thiệt đi một phần nào đó, để kiếm những cái lợi lớn hơn.<br />7. Điều rất bức bách là phải chuẩn bị đưa được những người của Việt Nam vào các chức vị cao trong các tổ chức kinh tế quốc tế.<br />Mấy chục năm vừa qua chúng ta rất lơ là việc này. Việt Nam không phải không có nhân tài. Nhưng ở Việt Nam mấy thập kỷ qua nhân tài chỉ được dùng như những người “điếu đóm” cho lãnh đạo. Nhân tài không có điều kiện phát triển. Hiện nay Thái Lan đã là Chủ tịch của WTO. Họ còn định ứng cử chức Tổng thư ký Liên hợp quốc. ở hầu hết các quốc gia Asean và nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, nếu cho họ chọn người vào các vị trí như thế thì họ sẵn sàng có ngay được khoảng 5-10 người. Thử hỏi hiện nay nếu các tổ chức quốc tế đặt vấn đề với Việt Nam chọn một người nào đó làm Chủ tịch WTO hoặc Chủ tịch Đại hội đồng Liên hợp quốc hoặc một uỷ viên nào đó, liệu có chọn được ai không? Đó là vấn đề.<br />Nếu chúng ta đưa được một người nào đó vào các vị trí của các tổ chức quốc tế thì trọng lượng của Việt Nam sẽ tăng lên. Một người Việt Nam giữ được một vị trí như thế có thể tạo ra những lợi ích nhiều tỷ đôla. Còn về mặt chính trị và quan hệ quốc tế thì không thể đo bằng đôla được. Nếu nước nào có người làm chủ tịch WTO chẳng hạn, Trung Quốc cũng phải kiêng , Nhật Bản cũng phải kiêng nể, Mỹ cũng phải kiêng nể. Việt Nam là một nước cểó một số đặc điểm lịch sử rất dễ được thế giới chấp nhận một cương vị như thế.n Nếu chúng ta khéo tuyên truyền vận động và điều quan trọng nhất là có người sẵn sàng chuẩn bị, thì 5-10 năm tới chúng ta có thể đạt mục tiêu này.<br />8. Mạnh dạn mở ra những hướng mới. Hai mươi năm đổi mới vừa qua đã mở ra rất nhiều tiềm năng cho đất nước. Những tiềm năng mà trong cơ chế cũ không phát huy được thì trong cơ chế mới đã bừng nở nhanh chóng, có nhiều khía cạnh bất ngờ. Thí dụ: trước đây vì chúng ta phải trả nợ cho các nước bạn nên phải đưa lao động đi nước ngoài. Hiện nay, ta đã tích luỹ được ít nhiều về vốn, những nhà kinh doanh Việt Nam đã nắm bắt được một số kinh nghiệm trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thay vì cho người lao động Việt Nam đi làm thuê cho nước ngoài, sống trong cảnh bị ngược đãi, tủi nhục tại sao chúng ta không nghĩ tới việc mở đường cho các nhà kinh doanh Việt Nam ra hoạt động ở một số nước trên thế giới, nhất là các nước kém phát triển.<br />Chúng ta đã bắt đầu có đầu tư sang một vài nước ngoài, song còn quá ít ỏi. Hiện nay, nhiều nước Châu Phi và có thể một số nước Đông Nam á như Lào, Campuchia, Mianma, Cu ba ...., là những nơi đang rất khó khăn về kinh tế, về vốn, về nhân lực trong sản xuất, kinh doanh. Trong khi Việt Nam bị nhiều cường quốc kinh tế khác lấn chiếm thị trường, tại sao Việt Nam không nghĩ tới việc bành trướng thị trường đầu tư và sản xuất tới những nước khác?<br />Nên chăng có thể học tập con đường mà chúa Nguyễn Hoàng đã đi trước đây để tạo ra sức mạnh của mình, đối đầu với phương Bắc, bành trướng về phía Nam, chiêu dân, lập ấp, mở mang bờ cõi. Tất nhiên chúng ta hoàn toàn không có ý định đi “xâm lược” một nước nào. Nhưng có rất nhiều nước, đặc biệt là Châu Phi hiện nay đất đai còn rất rộng, nhiều vùng còn bỏ hoang. Tuy điều kiện thiên nhiên rất khắc nghiệt, nhưng nếu đầu tư khai thác nguồn nước từ trong lòng đất chọn các giống cây thích hợp, thì có thể phát triển các hình thức đồn điền sinh lợi cao.<br />Điều đặc biệt thuận lợi cho Việt Nam là quan hệ với các dân tộc Châu Phi đã có từ lâu. Trong khi người Châu Âu không có khả năng khai thác nhiều, vì đụng chạm tới một quan hệ chính trị nặng nề đã để lại từ thời kỳ chủ nghĩa thực dân. Nếu Việt Nam có quan hệ tốt với chính phủ, với nhân dân địa phương, hợp tác giúp họ cùng phát triển, cùng có lợi thì việc mở mang kinh doanh như sản xuất các mặt hàng công nghiệp dân dụng, sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi ...., là điều hoàn toàn khả thi. Nếu phát triển theo hướng đó, chúng ta có thể nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, sử dụng được một nguồn lao động nông nghiệp đang dư thừa của Việt Nam, chứ không chỉ là xuất khẩu lao động. Thị trường Châu Phi rất rộng lớn, nhưng sức mua thì rất thấp. Những mặt hàng mà chúng ta đầu tư sản xuất tại đó với giá rẻ, chất lượng bình dân có thể tìm được những sức mua tương ứng.<br />Trên hướng này, nếu chúng ta không đi nhanh, thì người Trung Quốc sẽ chiếm hết địa bàn của chúng ta. Cuộc thăm của Hồ Cẩm Đào vừa qua ở Cuba, ký kết giữa Trung Quốc với các nước ASEAN ở Vientiane, cho thấy sự nhạy bén của họ, ta cần phải đặc biệt lưu ý.<br />Để thực hiện hướng phát triển này nên để cho các công ty cỡ nhỏ đi thăm dò trước (kể cả tư nhân) thí dụ lập trang trại, những công ty xây cất, trạm y tế, trường tiểu học, chế biến nông sản, làm một số mặt hàng công nghiệp như sành sứ, đồ mộc, dệt may. Con đường này cũng cần phải có những nhà nghiên cứu đi trước, rồi đến các nhà kinh doanh. Nhà nước tìm mọi cách hỗ trợ. Hướng này cần được nghiên cứu tỉ mỉ để hình thành một chiến lược phát triển.<br />Trên đây là những suy nghĩ của tôi đóng góp vào bản tổng kết, mong được các đồng chí tham khảo.Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-48929685345497214952009-08-07T00:26:00.000-07:002009-08-07T00:30:04.862-07:00No43:“Anh Sáu Dân” và khát vọng tri thức13-06-2008<br />Huy Đức (SGTT)<br /><br />Sáng 24.5, cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt nhập viện để rồi đi mãi. Buổi làm việc chiều 23.5, giờ đây, đã là “buổi làm việc cuối cùng” của ông.<br /><br /><br />Hôm ấy, trong cơn mưa không dứt, ông say sưa nói về vai trò của người trí thức trước những vấn đề của đất nước. Những ai đã từng biết đến Võ Văn Kiệt, người chứng kiến một đội ngũ trí thức trước năm 1975 hăm hở ở lại Sài Gòn để rồi, sau đó, lặng lẽ rời bỏ Sài Gòn, mới hiểu vì sao ông có thể để lại dấu ấn sâu đậm và được các bậc trí thức quý trọng<br /><br /><br /><br />“Để tôi đưa anh đi, đừng vượt biên nguy hiểm”<br /><br /><br />Năm 1980, trong khi GS Chu Phạm Ngọc Sơn đang đi công tác ở Liên Xô, một người con của ông “vượt biên” không thành. Phải sống ở Sài Gòn thời ấy mới cảm nhận được sự dữ dội của hai từ “vượt biên”. Trở lại Sài Gòn, ông Kiệt nói với giáo sư Sơn: “Để cháu đi như vậy, có gì, tôi với anh có tội”. Vợ GS Chu Phạm Ngọc Sơn là một dược sĩ đang làm ở một bệnh viện lớn. Giải phóng vô, bà được xếp vào thành phần “bóc lột”, bị thay thế bởi một người yếu kém về chuyên môn. Con gái ông, sau này trở thành một bác sĩ giỏi ở Mỹ, những năm ấy, thi vô dự bị y khoa không đậu. Cho dù giáo sư vẫn quyết tâm gắn bó với chế độ mới, lòng tin của vợ con ông vơi dần.<br /><br />Biết chuyện, ông Võ Văn Kiệt thỉnh thoảng qua lại, trò chuyện với gia đình GS Chu Phạm Ngọc Sơn, nhưng ông nhận ra mình bất lực. Ông Kiệt nói với giáo sư Sơn: “Thôi, anh cứ để cho cô ấy và mấy cháu đi, đi chính thức. Bên đó, có điều kiện cho các cháu học hành. Sau này, nếu các cháu trở về thì tốt, nếu không, tôi với anh cũng được làm tròn bổn phận”.<br /><br />Cũng trong những năm ấy, ông Kiệt cho gọi tổng thư ký hội Trí thức yêu nước Huỳnh Kim Báu lên dặn: “Anh nghe ngóng, anh em trí thức lỡ “đi”, nếu có bị bắt ở đâu, anh phải đi lãnh về”. Ông Huỳnh Kim Báu nhớ lại: “Một lần, nhận được tin công an Bình Thuận bắt giam kỹ sư Dương Tấn Tước về tội vượt biên, ông Kiệt cấp giấy cho tôi, ra Bình Thuận “di án” về TP.HCM thụ lý”. Ông Báu kể, khi bước vô trại giam, anh Tước thấy tôi, mừng quá định kêu lên, tôi phải giả vờ làm mặt lạnh, bước tới, còng tay anh Tước. Dọc đường, tôi cứ phải làm thinh mặc cho kỹ sư Dương Tấn Tước ngơ ngác. Qua khỏi Bình Thuận, tôi mới mở còng và giải thích.<br /><br />Đích thân ông Kiệt nhiều lần đến các trại giam để bảo lãnh các trí thức. Theo ông Phạm Văn Hùng và Nguyễn Văn Huấn, hai người giúp việc thân cận thời đó của ông, hình thức “xử lý” đối với những trí thức vượt biên của “Anh Sáu Dân” là kêu tụi tôi đích thân đi làm lại hộ khẩu và sổ gạo cho họ. Một trong những trí thức mà ông Kiệt rất quý trọng là kỹ sư ngành dệt Phạm Văn Hai. Khi ông Hai vượt biên bị bắt, ông Kiệt vào trại giam nói: “Khi nào không ở lại được nữa hãy nói với tôi, anh đừng đi như thế, nguy hiểm lắm”.<br /><br /><br />“Nước đâu phải là chuyện của trí thức”<br /><br /><br />Ông Võ Văn Kiệt nhiều lần tâm sự, ông hiểu phần lớn những trí thức chọn ở lại sau ngày 30.4 không phải vì họ bị “kẹt”. Ông biết nhiều người có trong tay cả một chiếc máy bay đã cất cánh nhưng không thể nào rời bỏ Việt Nam được. Nhiều người, như giáo sư Châu Tâm Luân, đã từng là một “kẻ chống đối” trong chế độ cũ. Kết thúc chiến tranh là một cơ hội mà phần lớn người dân miền Nam lúc ấy hy vọng sẽ nhanh chóng thống nhất được lòng người để xây dựng một đất nước ấm no hạnh phúc. Nhưng, ông hiểu vì sao chính những người đó về sau đã “vượt biên”.<br /><br />Ông Đặng Anh Võ, một chuyên gia trong ngành viễn thông, do từng phục vụ trong quân đội, sau 1975, phải đi “học tập” một thời gian. Cũng như nhiều trí thức lúc đó, ông Võ phải làm đủ nghề để kiếm sống. Ông, một người lãnh lương gần 4 cây vàng/tháng hồi trước 1975, kể lại cuộc sống về sau trong tập sách Những trang đời do hội Nghiên cứu dịch thuật xuất bản: 16:30 tan sở; 17:00 đến Trung tâm ngoại ngữ; 21:00 về, ăn qua loa rồi phụ vợ gọt thơm, gọt ổi để sáng còn kịp đi bỏ mối. Nhiều hôm, 21:00 dạy ra, bánh xe bị xẹp, phải dắt bộ 9km về nhà tự vá để tiết kiệm 3 đồng! Nhưng, sự khốn khó của cuộc sống không phải là tất cả.<br /><br />Cho tới hàng chục năm sau, khi nhớ lại thời điểm này, ông Kiệt nói: “Đau lắm, để họ ra đi là đau lắm! Nhưng, mình biết, cái cách của mình lúc ấy không thể nào giữ được họ”<br /><br />Ông Huỳnh Kim Báu kể, năm 1978, khi có nhiều trí thức bỏ nước ra đi, ông Võ Văn Kiệt đã gặp gỡ trí thức thành phố, kêu gọi họ ở lại. Ông nói: “Anh em cố gắng ở lại, trong vòng ba năm nữa, nếu tình hình vẫn không thay đổi, tôi sẽ đưa anh em ra phi trường”. Lúc đó, GS Nguyễn Trọng Văn đứng lên trả lời ông: “Chúng tôi sẵn sàng ở lại, nhưng nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì tôi cho rằng người ra đi không phải là chúng tôi”. Câu nói của GS Nguyễn Trọng Văn gây rúng động. Tối hôm ấy tại văn phòng Thành uỷ có một cuộc họp, Huỳnh Kim Báu được mời dự. Các ý kiến phê phán GS Văn hết sức gay gắt, có người đề nghị: bắt! Ông Báu kể, Sáu Dân làm thinh, nhưng cặp mắt đăm chiêu, buồn. Cuối cùng, ông nói: “Sau khi nghe anh Văn nói, tôi cũng bị sốc, rất sốc. Nhưng rồi suy nghĩ, tôi thấy, anh Văn đã phát biểu rất nghiêm túc. Tôi cho rằng, nếu ba năm nữa mà tình hình không thay đổi thì rõ ràng người ra đi không thể là các anh ấy”. Kết luận của “Sáu Dân” khiến cho mọi người im lặng và nhờ kết luận đó, GS Nguyễn Trọng Văn đã không bị bắt.<br /><br />Năm 1977, một lần, hệ thống nước máy của thành phố bị đục, ông Võ Văn Kiệt mời các nhà trí thức tới hiến kế. Nhiều người phát biểu, riêng ông Phạm Bửu Tâm ngồi im. Ông Kiệt hỏi: “Sao vậy anh Tâm?”. Ông Phạm Bửu Tâm là một nhà giáo dục rất được kính trọng. Ông Tâm cũng rất quý ông Kiệt, nhưng có lẽ là đã dồn nén lâu lắm, ông đứng dậy nói: “Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng đã có mấy anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh, đâu phải chuyện tụi tui”.<br /><br />Những câu nói như vậy không làm cho ông Võ Văn Kiệt, lúc đó đang nắm “quyền sinh quyền sát” tại thành phố, để bụng. Ông nhận thấy ở đấy sự đau đớn của giới trí thức. Ông biết, những người như kỹ sư Phạm Văn Hai không chỉ tiếc những tài sản bị “cải tạo”, mà còn không chịu được khi nhìn những nhà máy bị quản lý cẩu thả, chất lượng sản phẩm xuống cấp. Những người như GS Châu Tâm Luân, Dương Kích Nhưỡng thì xót xa về một vấn đề khác lớn hơn. Ông Kiệt kể: Anh Dương Kích Nhưỡng nói với tôi, “Ý của các anh rất tốt nhưng các anh không làm được”. Tôi hỏi vì sao, anh Nhưỡng nói, “Đất nước phải được quản lý theo luật”. Cho tới hàng chục năm sau, khi nhớ lại thời điểm này, ông Kiệt nói: “Đau lắm, để họ ra đi là đau lắm! Nhưng, mình biết, cái cách của mình lúc ấy không thể nào giữ được họ”.<br /><br />Khát khao tri thức<br /><br />Sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, ông Võ Văn Kiệt chưa bao giờ được đến trường một cách chính thức. Từ năm lên sáu, lên bảy tuổi, ông Kiệt, khi ấy có tên là Phan Văn Hòa, Chín Hòa, thường theo cha nuôi lênh đênh đi gặt mướn cho các điền chủ dọc sông Tiền, sông Hậu. Công việc của Chín Hòa là giữ ghe hoặc “mót” lúa. Năm tám tuổi, Chín Hòa mới được đi học. Lớp học do những gia đình trung nông, địa chủ, sau ngày mùa, cất trại, rước thầy về dạy, nên tiền học chỉ phải trả “rất nhẹ”. Ông Hai Mẹo, một trong hai người thầy “dạy mùa” của Chín Hòa, kể: “Năm 1932, lấy được cái certificat, tôi về Đình, ông chú thấy tôi có chữ, kêu tôi dạy cho trẻ con lối xóm. Chín Hòa, thông minh và ăn nói lễ độ lắm. Nhưng dạy được hai năm thì tôi cũng hết chữ, rồi thôi”. Lớp học thứ hai của ông là do những người truyền giáo tới ấp Bình Phụng, quê ông, mở. Ông học ở ngôi trường này khoảng một năm. Tuy nhiên con đường tìm kiếm tri thức của ông Võ Văn Kiệt không dừng lại ở đấy.<br /><br />Khi tham gia cách mạng, được dự những cuộc họp của Uỷ ban kháng chiến Nam bộ, nghe những bậc trí thức như Nguyễn Văn Hưởng, Ung Văn Khiêm, Phạm Ngọc Thuần… nói, ông Võ Văn Kiệt thấy có một khoảng cách rất rõ giữa mình và những bậc trí thức đó. Ngay từ trong kháng chiến, ông đã miệt mài đọc sách và học hỏi từ những bậc trí thức, cho dù có nhiều người chỉ là cấp dưới của ông.<br /><br />Sau ngày 30.4.1975, ông không mang nguyên cái “thế” của một nhà lãnh đạo kháng chiến xuất sắc từ trong rừng trở về. Ông không ngần ngại học hỏi từ những người trí thức Sài Gòn cũ. Trong đó có những người đã từng là quan chức cao cấp trong chế độ Sài Gòn như tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo, tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh… Ông nhìn thấy ở họ phẩm chất của những người yêu nước và rất tự trọng. Hồi đó, một vị lãnh đạo thấy ông gần gũi với những quan chức cao cấp của chế độ cũ, muốn giữ cho ông, nói: “Đó là CIA đấy”. Ông trả lời: “Lúc nào anh đủ bằng chứng họ là CIA hãy đưa tôi, chính tôi sẽ bắt họ”. Những kiến thức về kinh tế thị trường của các ông như Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Xuân Oánh, những người đã từng là phó thủ tướng trong chế độ Sài Gòn, và của nhiều bậc trí thức Sài Gòn khác mà ông có dịp tiếp cận rất sớm, tuy ngay lúc đó chưa dùng được nhưng về sau đã rất hữu ích với ông.<br /><br />Năm 1989, khi ông đang là Phó chủ tịch thứ nhất Hội đồng bộ trưởng, được giao chủ trì công tác cải cách hệ thống ngân hàng, ông Kiệt đã thiết lập một nhóm chuyên gia bao gồm cả những người đã từng hoạt động trong hệ thống ngân hàng Sài Gòn. Hai “tác giả” chính của pháp lệnh Ngân hàng thời đó chính là hai chuyên gia được ông mời từ Sài Gòn ra: ông Huỳnh Bửu Sơn và ông Lâm Võ Hoàng.<br /><br />Năm 1990, khi đại diện Việt Nam lần đầu tiên tham dự diễn đàn Kinh tế thế giới tại Davos, Thuỵ Sĩ, ông kể: “Tôi không yên tâm với bài phát biểu do anh em văn phòng chuẩn bị. Anh em giỏi nhưng hiểu biết về phương Tây chưa nhiều”. Ông đã không ngần ngại đưa bài phát biểu của mình vào Sài Gòn nhờ tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh đọc lại. Đồng thời, ông cho bà Tôn Nữ Thị Ninh liên hệ mời tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo lúc ấy đang ở nước ngoài bay đến Davos. Như vậy, trong chuyến đi tới phương Tây lần đầu tiên ấy, ông có không chỉ là một người bạn mà còn có một “cố vấn” ở bên cạnh. Trước chuyến đi, ông cũng nhờ bà Tôn Nữ Thị Ninh tư vấn về trang phục. Đó là thời điểm Việt Nam bắt đầu đổi mới và thế giới bắt đầu nhìn thấy một nhà lãnh đạo “cộng sản”, từ trong cách ăn mặc, phát biểu, hết sức thân thiện và không có nhiều khác biệt với thế giới bên ngoài.<br /><br />Sự trân trọng chân thành<br /><br />Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo kể, những năm sau 1975, ông ở lại nhưng rồi không được sử dụng, đôi khi cả ngày không có việc gì làm. Nhưng, khi nghe một vị lãnh đạo điện thoại bảo: “8 giờ sáng nay mời anh lên tôi gặp”, ông đã trả lời: “8 giờ tôi bận”. Ông Kiệt không bao giờ cư xử như vậy. Cho dù đang ở vị trí đầy quyền lực và lớn tuổi hơn, khi nào ông Kiệt cũng gọi tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo bằng “ông”. Những khi muốn gặp, ông thường trực tiếp nói chuyện điện thoại và bao giờ cũng hỏi trước: “Ông tiến sĩ rảnh vào lúc nào?”.<br /><br />Một lần, ông Kiệt mời kiến trúc sư Ngô Viết Thụ cùng ông đi Algérie. Trên chuyến bay của hãng hàng không Air France, ông được xếp ở khoang hạng nhất, còn KTS Ngô Viết Thụ do sơ suất chỉ được mua vé ngồi ở phía sau. Ông muốn mời KTS Ngô Viết Thụ lên ngồi cùng nhưng không được. Ông “xin” phi hành đoàn cho được xuống hạng economy để ngồi với ông Thụ, thế là phi hành đoàn đã đồng ý để ông mời KTS Ngô Viết Thụ lên. Trong một chuyến đi khác cùng với KTS Ngô Viết Thụ ra Hạ Long, khi ông Thụ xúc động trước cảnh đẹp thần tiên, đích thân ông Kiệt đã lấy giấy và tự tay mài mực cho ông Ngô Viết Thụ vẽ.<br /><br />Là một nhà lãnh đạo hết sức quyết đoán, nhưng đồng thời ông Võ Văn Kiệt cũng là người hết sức thận trọng, ông thường lắng nghe rất nhiều ý kiến khác nhau trước khi ban hành các quyết định của mình. Ông nói: “Kinh nghiệm của một nhà lãnh đạo là phải nghe rất kỹ ý kiến chuyên gia và đặc biệt, đã nghe chuyên gia thì phải nghe trực tiếp chứ không bao giờ nên nghe thông qua những người giúp việc”.<br /><br />Cho đến những năm cuối đời, ông vẫn đọc rất nhiều, đọc cả những ý kiến chỉ trích ông gay gắt. Nhiều lần ông dặn những người giúp việc, nếu như những người chỉ trích ông về nước, hãy mời họ tới gặp ông. Ông trân trọng và muốn trao đổi sâu thêm về những khác biệt, với họ.<br /><br />Bằng sự trân trọng tri thức và các bậc trí thức một cách chân thành, ông tìm thấy ở họ, không ngừng, những điều mới mẻ. Và đặc biệt ông kiến tạo được rất nhiều mối quan hệ bè bạn với các nhà trí thức. Đó là lý do mà người ta có thể tìm thấy ở ông không chỉ là uy lực mà còn là sự thông tuệ. Và đặc biệt, ông có được từ những người đã gặp và làm việc, không chỉ là sự kính trọng mà còn là sự thân thiện. Sự thân thiện của một con người vẫn thường được gọi: “Anh Sáu Dân”.<br /><br />Huy ĐứcVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-48032628134968758502009-08-07T00:24:00.000-07:002009-08-07T00:26:03.936-07:00No42: CHÂN DUNG ÔNG TỐ HỮUThực ra, người viết đã nghĩ là sẽ không ghi chép, bình luận thêm gì về chân dung ông Tố Hữu nữa. Nhưng đọc báo trong nước, lại thấy ông Tố Hữu tự tô đậm thêm chân dung của ông một lần nữa, nên cũng xin chép lại để giới thiệu với các bạn. Số là, sau khi cuốn “Chân Dung Và Ðối Thoại” của Trần Ðăng Khoa ra mắt độc giả, dư luận trong nước khá xôn xao, bạn đọc kẻ khen người chê, người thì cho là Trần Ðăng Khoa mạnh dạn “xé rào” dám đưa ra một phần sự thật về các nhà văn, kẻ lại chê là tác giả “láo lếu” dám “xỏ ngầm” các bậc đàn anh khả kính. Tờ “An Ninh Thế Giới” (ANTG) quan tâm đến “an ninh văn hóa” nước nhà, đã cử nhà báo N.N.P. phỏng vấn ông Tố Hữu để xin ý kiến của ông về bài Trần Ðăng Khoa viết về ông. Trong ANTG số 117, có đăng bài phỏng vấn đó.<br /><br /> Trả lời câu hỏi của nhà báo công an, ông Tố Hữu nói:<br /><br /> - Chú chưa có ý kiến gì đâu. Cứ để các nhà phê bình, bạn đọc lên tiếng đã. Rồi sau đó chú sẽ có tiếng nói chính thức. Mà có lẽ tốt hơn cả là chú gọi Khoa tới... như ngày xưa Khoa còn bé tý. Mà này, cháu ở Văn hoá - Văn nghệ Công an hả. Chà chà, phải cẩn thận khi phát ngôn đấy. Kẻo người ta bảo ông Tố Hữu dùng "Công an đánh Khoa" thì gay. Cháu cứ ghi ý kiến của chú, đăng báo nào thì tuỳ, nhưng đăng ở Công an... Từ từ nhé!<br /><br /> Quả là ông nhà thơ tỏ ra... “khôn” thật. Ông dặn anh nhà báo công an phải cẩn thận... “Kẻo người ta bảo ông Tố Hữu dùng "Công an đánh Khoa" thì gay”! Tố Hữu làm như tuồng ông chưa hề bao giờ dùng công an “đánh” một văn nghệ sĩ nào cả! Chưa hề bao giờ bắt bớ, giam cầm và bỏ tù văn nghệ sĩ cả! Các văn nghệ sĩ là nạn nhân còn sống sót sau bao cuộc đàn áp - mà ông Tố Hữu là một trong những người phải chịu trách niệm chính - nghĩ thế nào khi nghe ông nói thế?<br /><br /> Rồi ông Tố Hữu nói tiếp:<br /><br /> - ... Tôi và anh Xuân Diệu phát hiện ra Khoa, bồi dưỡng Khoa. Tập thơ "Góc sân và khoảng trời" đến bây giờ vẫn giữ nguyên giá trị... Sau này, Khoa không được như trước nữa, có lẽ là vì "đứt rễ", vì phải xa cái sân gạch nhà mình, xa cây na ngày gọi chim, đêm gọi trăng... Nhà văn, nhà thơ mà xa mảnh đất đã làm nên mình là hỏng. Ðặc biệt sai lầm là cái việc đưa Khoa đi học Trường viết văn Goócki. Làm gì có trường dạy viết văn. Nghề văn không dạy được. Nhà văn hình thành là do cuộc sống, do một năng khiếu bẩm sinh. Nhà văn là phải học ở trường đời. Tôi cho Trường viết văn Nguyễn Du là thứ tào lao, không nên có. Chỉ nên mở lớp bồi dưỡng khoảng một năm.<br /><br /> Ðúng quá! “Làm gì có trường dạy viết văn. Nghề văn không dạy được. Nhà văn hình thành là do cuộc sống, do một năng khiếu bẩm sinh. Nhà văn là phải học ở trường đời”. Ðiều này trước đây nhiều người đã nói, nhưng ông Tố Hữu cũng như các vị lãnh đạo khác của Ðảng có chịu nghe đâu?! Còn... bây giờ thì ông nói thế, một lần nữa ông lại “phịa như thật”! Làm như tuồng trước đây ai đấy đã quyết định làm cái “thứ tào lao” đó, tức là bày ra Trường viết văn Nguyễn Du, là cử sinh viên đi học ở Trường viết văn Goócki, chứ không phải ông Tố Hữu, người đã “thống lĩnh” văn học nghệ thuật Việt Nam xã hội chủ nghĩa suốt mấy chục năm trời! Ông cũng cố lờ đi cái mục đích chính của trường viết văn do Ðảng của ông bày ra. Ðảng mở ra trường viết văn đâu có phải để dạy viết văn - như ông nói bây giờ - mà chính là để nhồi sọ cho các nhà văn tương lai cái đầu óc tuyệt đối phục tùng Ðảng, hết lòng hết sức phục vụ cho đường lối của Ðảng. Những thứ đó các ông lãnh đạo Ðảng thường gọi là “tính đảng trong văn học nghệ thuật”! Hay là “trau giồi thế giới quan mác-xít lê-nin-nít”!<br /><br /> Ðọc câu trả lời của Tố Hữu, tôi bỗng liên tưởng đến một chuyện thật chua xót thế này: sau khi đã giam cầm, bỏ tù một loạt văn nghệ sĩ hoàn toàn vô tội, hay chỉ có cái “tội” tha thiết ước muốn tự do, trong cái gọi là “vụ án Nhân Văn Giai Phẩm”, ngày 25.7.1961, ông Tố Hữu đọc một bài diễn văn quan trọng, nhan đề “Ðào tạo những nghệ sĩ mới của dân tộc”, trong đó ông nói: “Chúng ta giàu cái gì nhất? Giàu tự do. Tự do là điều kiện thiết yếu của nghệ thuật. Tự do là nước, nghệ thuật là cá. Không có tự do, nghệ thuật không sống được và sẽ chết. Nếu không có ý thức đầy đủ về điều đó, thì nghệ thuật không thể phát triển được” (chép đúng nguyên văn, xem tr. 261 sách “Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta với thời đại ta” của Tố Hữu, Hà Nội 1973). Xin nhắc lại: cái chúng ta giàu nhất là tự do!!! Ðấy, cái tài - có thể gọi là nghệ thuật - “phịa như thật” của Tố Hữu là như thế đó: cái đúng và cái bịp, cái thật và cái phịa xen kẽ nhau, xoắn quyện nhau, khó mà “lần” cho ra... Nhắc lại điều này để thấy chân dung ông Tố Hữu gần 40 năm trước và bây giờ về cơ bản không có gì thay đổi mấy!<br /><br /> Ông Tố Hữu nói tiếp với nhà báo công an:<br /><br /> - ... Nhưng mà này, tôi có cảm giác Khoa đang sống xa dân, xa cuộc sống thật... Nguy đấy. Gần đây, văn học nước nhà không có cuốn tiểu thuyết nào gây ấn tượng. À, tôi thấy có câu này không ổn. Khi nói đến Ðảng, đến Bác là chúng ta hay nói “ơn Ðảng, ơn Bác Hồ”. Nói thế Bác buồn đấy. Phải là “ơn dân” rồi mới đến Ðảng, đến Bác.<br /><br /> Một lần nữa, ông Tố Hữu lại tỏ rõ biệt tài “phịa như thật”. “Nói thế Bác buồn đấy”! Ðạo đức giả làm sao! Tố Hữu làm như hồi sinh thời, ông Hồ coi trọng dân hơn Hồ Chủ tịch, coi trọng dân hơn đảng cộng sản. Lẽ nào ông trưởng ban tuyên huấn của Trung ương Ðảng lại không biết chuyện ông Hồ đã dùng tên giả, tự tay mình viết sách (không phải chỉ một cuốn!), viết báo (không phải chỉ một bài) để ca tụng mình? Lẽ nào ông lại không biết là trong sách do ông Hồ viết, chính ông Hồ đã tự tôn vinh “Hồ Chủ tịch là Cha già dân tộc”? Nếu ông biết thì xin ông trả lời thành thật: “Thế thì Bác Hồ của ông đặt dân trên Bác hay Bác trên dân”?<br /><br /> Ông Tố Hữu cố tình quên là trước đây chính ông và “đội quân” tuyên huấn của ông là những kẻ gieo rắc tệ sùng bái cá nhân ông Hồ tích cực nhất, lắm khi đến lố bịch. Chắc ông Tố Hữu cố quên chuyện thật này: hồi đầu năm 60, một số người Hà Nội đã đề nghị dựng tượng các anh hùng dân tộc Lê Lợi và Nguyễn Trãi tại thủ đô Hà Nội, thì chính ông Tố Hữu đã bác đi và nói: “Chỉ khi nào ở thủ đô dựng tượng Bác Hồ rồi thì lúc đó mới được dựng các tượng khác của các anh hùng dân tộc”!<br /><br /> Mà thực ra, chẳng đợi ban tuyên huấn đảng làm chuyện gieo rắc tệ sùng bái cá nhân ông Hồ, chính bản thân ông Hồ cũng đã tự mình làm việc đó thật hăng say. Chuyện đó không còn là điều “tối mật” nữa.<br /><br /> Biết rằng cái thế của mình không còn “hét ra lửa” như xưa, ông Tố Hữu tỏ ra dịu dàng, “độ lượng” (chữ này của nhà báo N.N.P.) đến cảm động khi nhận xét bài viết của Trần Ðăng Khoa:<br /><br /> - ... Nhưng thôi, bài viết thế là tốt... Viết như thế có gì đâu mà không phải với tôi. Ờ, mà tại sao có người lại tức giận hộ cho tôi nhỉ... Khoa phải cẩn thận lắm mới có thể vượt qua "Góc sân và khoảng trời" nhà mình. Từ đó đến nay đã 30 năm rồi còn gì. Vậy mà sau lưng Khoa trống đấy. Cháu là công an hả, phải thổi còi cho Khoa thôi. Nhưng đừng để nó giật mình, ngã xe nhé!<br /> Và anh công an đã thổi còi... Còn chúng ta đưọc thấy thêm vài nét nữa trên chân dung của Tố Hữu.<br /><br />CHÂN DUNG ÔNG TỐ HỮU<br />(TRANH KHẢM)<br /><br /> Sau khi "Chân dung ông Tố Hữu" được đăng báo, người viết nhận được hồi âm của khá nhiều bạn đọc từ các nơi gửi đến góp ý kiến và bổ sung thêm nhiều chuyện mới khắc họa thêm những nét sống động cho chân dung. Người viết xin chân thành cảm tạ các bạn và xin phép chép ra đây mấy bài. Chúng tôi cố giữ nguyên phong cách, ngôn từ của các bạn gửi bài.<br /><br />Cây táo ông Lành<br /><br /> Một bạn trong nước nói rõ bài “Tên Lành mà dạ chẳng lành...” lưu truyền từ hồi cuối những năm 70 và kể thêm một chuyện sau:<br /> Năm 1974, nhân dịp ngày quốc tế thiếu nhi (ngày 1/6), tuần báo Văn nghệ có đăng truyện ngắn "Cây táo ông Lành". Chuyện kể về một ông già tên là Lành, có cây táo mọc trong vườn sát đường đi học của lũ trẻ trong làng. Bọn học trò thường vít cành bứt quả khiến ông bực tức và dùng vải đen tạo ra một ổ kiến lửa trên cây, dọa trẻ con. Lũ trẻ con trông tổ kiến giống đầu lâu đen sợ hãi, và tránh, đi lối khác, "không đi theo con đường ông Lành nữa". Lão Lành giữ được cây táo thì mất lũ trẻ con ríu rít hàng ngày qua lại. Lão tìm cách giải thích cho trẻ con đấy không phải là đầu lâu đen, nhưng chẳng đứa trẻ nào tin.<br /><br /> Tên cúng cơm của ông Tố Hữu là Lành. Hồi đó, ông đang ở trên “đỉnh cao muôn trượng” của quyền lực, thế là họ truy tìm lý lịch người viết. Lũ bồi bút "phê bình" văn học mang kính lúp ra soi, nào là "đầu lâu đen" viết tắt là ÐLÐ, ám chỉ Ðảng Lao động Việt nam, nào là "không đi theo con đường ông Lành nữa", nghĩa là không đi theo con đường của Ðảng...Tác giả bài báo phải “chịu sóng gió” một thời, nhưng may thay, anh là một thương binh có hạng, không thì cũng khó sống yên với họ.<br /><br />"Khơi lại những ý thích tầm thường"<br /><br /> Một bạn khác cũng ở trong nước kể lại:<br /><br /> Dạo ấy, Nguyễn Tuân bị Tố Hữu phê phán nặng vì bài “phở” và “giò lụa” với tội danh “tư tưởng hưởng lạc”, “tầm phào”, “khơi lại những ý thích tầm thường”. Chuyện đó xảy ra sau khi quân ta vào Hà Nội vài năm, nên cái “tội” có “tư tưởng hưởng lạc”, “khơi lại ý thức tầm thường” là nặng lắm, vì nó thuộc về lập trường giai cấp, đó là biểu hiện tư tưởng tư sản, tiểu tư sản, biểu hiện sút kém tinh thần cách mạng, điều mà Lê Duẩn thường “lên gân” nhắc nhở cán bộ.<br /><br /> Thế nhưng, vào thời đó ở Miền Bắc, người ta (cụ thể là ban bảo vệ sức khỏe lãnh đạo, được lập nên do sáng kiến của Lê Ðức Thọ và Trần Quốc Hoàn) cũng đã bí mật... “khơi lại những ý thích tầm thường” và “tư tưởng hưởng lạc”... cho “các cụ” lãnh đạo. Không phải bằng văn học như Nguyễn Tuân, mà “bằng công việc thiết thực”, tức là tuyển dụng các cô gái trẻ để thành lập khoa “lý liệu pháp” hay về sau đổi tên là “vật lý trị liệu” (tiền thân của massage - xoa bóp - sau này) chuyên “phục vụ” cho “các cụ” lãnh đạo. Bọn quân sư lý luận rằng “cơ thể là một khối thống nhất” cho nên phải làm “thức tỉnh” tất cả các cơ quan chức năng của “các cụ” để các cụ minh mẫn đưa dân ta ra khỏi con đường lầm than.<br /><br /> Ðứa con trai nhỏ “ngoài giá thú” của Ba Duẩn sinh hạ chính là trong dịp này. Chuyện ồn lên ở Hà Nội một dạo. Sau phải đưa cả hai mẹ con đứa bé vào Miền Trung bộ Việt Nam sống. Nghe nói năm 1986 khi Lê Duẩn chết, cô ta ra dự tang và xuất hiện trên màn ảnh TV.<br /><br />Ao cá Bác Hồ<br /><br /> Chuyện này cũng do một bạn trong nước gửi cho:<br /><br /> Năm 1979, trong nước rộn lên phong trào “Ao cá Bác Hồ”, tác giả chính là Tố Hữu. Chuyện thế này: ở các vùng thôn quê, người ta huy động thanh thiếu niên đào ao cá Bác Hồ, cá giống được các bô lão thuê xe ca “Ba Ðình” gióng trống mở cờ lên tận nhà sàn Bác nhận cá giống. Ðúng là cá “thần” thật, chỉ một vài chục con thả xuống, sau thời gian ngắn đàn cá sinh sôi nảy nở phục vụ cho dân làng lễ Tết. Trước đó, từng gia đình người ta thả cá ở ao nhưng... ít khi được xơi. Lý do thì nhiều: nào là mưa to, cá trôi sạch, nào là bọn đạo chích câu trộm, nào là cá chết vì bệnh... Vì thế sáng kiến của Tố Hữu được báo chí khen rầm rộ. Lạ lùng thế này: trường đại học thủy sản, đào tạo các kỹ sư nuôi cá nước mặn, nước ngọt, nước lợ... mà không con nào sống cả, nhưng chỉ vài con cá “thần” lấy từ ao ông Hồ về thì cá lớn nhanh, khoẻ re. Sao không đóng mẹ nó cửa cái trường đào tạo ra rặt bọn ăn hại đái nát ấy đi? Hay là duy tâm thắng duy vật rồi?<br /><br /> Nhưng Tố Hữu đâu có biết rằng (hoặc biết mà lờ đi? - người đánh máy) sau khi thả “cá giống Bác Hồ” thì chủ nhiệm hợp tác xã cũng phải xuất thóc mua hàng tạ cá giống khác ném tiếp xuống ao, cử một xã viên ăn công điểm hẳn hoi ngày ngày giã cám vứt xuống ao nuôi chúng. Dân quân được lệnh 24/24 giờ trông coi ao cẩn thận. Nếu mưa to, cá bỏ đi mất thì... xuất tiền mua bù bỏ vào để khỏi bay cái chức chủ nhiệm.<br /><br /> Tại ao cá Bác Hồ nằm phía sau Nhà hát nhân dân thành phố Hải phòng, giáp với ngõ Ðồng Lùn (quê hương của anh bạn tôi) đã xảy ra thảm cảnh. Tự vệ trông hồ cá đã nổ súng vào bọn đánh cá trộm ban đêm. Không trúng trộm, mà trúng ngay bà cụ 70 tuổi nằm hóng mát ven hồ. May mà lũ con bà cụ không làm to chuyện, sáu mâm cỗ và cỗ quan tài là... xong việc.<br /> Giá như Bác Hồ, ngoài việc biết nuôi cá, lại biết làm thêm xe máy, ôtô, máy bay, TV ... để Tố Hữu “vận dụng” theo kiểu “ao cá Bác Hồ” thì... chắc dân ta không mạt vận như thế này!<br /><br />Tố Hữu thương thanh niên Pháp<br /><br /> Một bạn hiện đang tị nạn ở Ðức gửi thư kể chuyện này:<br /><br /> Sau khi dự đại đại hội Ðảng cộng sản Pháp, về nước Tố Hữu thường tỏ lòng thương thế hệ trẻ Pháp. Trong buổi gặp mặt thanh niên ở Hà Nội, ông nói như sau: "Thật thương cho thế hệ trẻ ở Pháp có cuộc sống vật chất đầy đủ, nhưng còn thiếu ánh sáng của chủ nghĩa xã hội soi rọi để sống có lý tưởng" (!)<br /><br /> Thế mà bây giờ con gái Tố Hữu tên là Hoa, phó tiến sĩ sinh vật học đang cùng chồng là Châu (tiến sĩ cơ học) mang con cái sang ở Ðức, chỗ tăm tối thiếu ánh sáng của chủ nghĩa xã hội và có ý định sống lâu dài ở đó. Không thấy Tố Hữu thương con, thương cháu gọi chúng về nước... sống dưới ánh sáng của chủ nghĩa xã hội!<br /><br />Chỉ sợ các Bác không buông quang gánh ra thôi<br /><br /> Một bạn đã từng đi học ở Czechoslovakia (Tiệp Khắc) kể lại chuyện thật mà anh đã chứng kiến sau đây:<br /><br /> Hè năm 1981, Tố Hữu lúc đó là Phó thủ tướng thường trực, sang thăm một số nước Châu Âu. Hồi đó, Tố Hữu thay quyền hạn Phạm Văn Ðồng, nên kiêu lắm. Tại Prague (thủ đô của Czechoslovakia), có cuộc gặp gỡ và nói chuyện với sinh viên. Khi ra về, Tố Hữu lên giọng "lãnh tụ" cũng tự xưng là “bác” như... ai: "Bác và các đồng chí lãnh đạo đang gồng mình gánh vác gánh nặng khó khăn của đất nước, các cháu cần phải học hành chăm chỉ để sau này thay thế các Bác gánh vác gánh nặng ấy. Các cháu đã sẵn sàng chưa?"<br /> Một sinh viên lớn tuổi nhất trong đám đông trả lời ngay tắp lự: "Chúng cháu đã sẵn sàng cả rồi, chỉ sợ các Bác không buông quang gánh ra thôi". Tố Hữu tím mặt, tọt ngay vào xe, chuồn thẳng. Khốn khổ cho anh chàng bạo miệng! Tố Hữu về đến Hà Nội thì anh này bị sứ quán gọi lên và trục xuất về nước ngay.<br /><br />Cái nhầm... đáng yêu<br /><br /> Một cụ già về hưu đã gửi cho mẩu chuyện này:<br /><br /> Vào những năm 70, nhà thơ "mẹ mìn" của chúng ta bỗng dưng sáng chói trên chính trường Việt Nam, với chức Phó thủ tướng thường trực. Theo lời đồn đại của dân chúng thì ông còn được "dự kiến" làm Tổng bí thư Ðảng, kế vị Lê Duẩn. Thế mà sau cái chết của Lê Duẩn vào năm 1976, khúc sông chính trị bỗng nhiên nổi sóng, khiến cho Tố Hữu lặn mất tăm, không còn vai vế gì trong Ðảng. Tố Hữu sống ở ngôi nhà khá đẹp trên phố Phan Ðình Phùng. Ðã thấu hiểu phương châm "sóng trước vỗ đâu, sóng sau vỗ đó" của các "chiến hữu", Tố Hữu lo xa đến ngày phải rời tổ ấm chuyển đi căn hộ "lắp ghép" với "song sắt chuồng cọp", bèn nẩy kế xin một khoảnh đất đẹp ở Hồ Tây để... xây nhà trong lúc tình cảm đồng chí còn chưa hết hơi nồng.<br /> Tố Hữu đã nhầm to, chẳng có ai "thu" lại ngôi nhà to đùng ở phố Phan Ðình Phùng, như ông nghĩ, nên ông vẫn ung dung "tọa lạc" ở đó. Còn ngôi nhà to đùng mới xây "thừa ra" ở Hồ Tây đành phải cho thuê lấy 2000USD/tháng, phụ thêm khoản rau dưa cho bà Thanh (1) đi chợ.<br /><br /><br /> Cái nhầm đáng yêu của ông Lành không ngờ mang lại hiệu quả lớn!<br /><br />* * *<br /><br /> Những mẩu chuyện trên đây ghép lại thành bức tranh khảm, xin gửi tặng các bạn.<br /> <br /><br />Thanh Phong<br />--------------------------------------------------------------------------------<br /><br /><br /> 1. Tên vợ ông Tố Hữu.Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-89625233827948939432009-08-07T00:13:00.000-07:002009-08-07T00:23:35.913-07:00No41: Sự thật ở đâu ?Nhà văn Hoàng Tiến<br />(Nhân đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi)<br /><br />Năm 1997, tôi có viết một tiểu luận “Nhìn lại vụ án Nhân văn-Giai phẩm cách đây 40 năm”. Dưới con mắt của người nghiên cứu, tôi đặt ra một vấn đề: trên cái bề mặt nổi của đấu tranh giai cấp về quan điểm tư tưởng vô sản và quan điểm tư tưởng tư sản trong văn nghệ, giấu một cái mạch ngầm là lòng đố kỵ tài năng, là sự đố kỵ của Tố Hữu với những tài năng trong văn nghệ. Đó là cách nhìn của tôi về vụ án văn học kỳ dị nhất trong lịch sử văn chương xứ ta, với mức án không thành văn kéo dài hàng 30 năm. Đến khi được cởi trói (1986 Đại hội Đảng lần VI) thì nhiều người tóc đã bạc phơ, nhiều người đã chết. Cách nhìn nhận ấy đúng hay không đúng, mong được bàn bạc. Chính vì vậy trong tiểu luận tôi phải chỉ ra được những yếu kém trong thơ Tố Hữu, điều mà lâu nay như cấm kỵ; và đi theo nó phải chứng minh được những cái hay của các nhà thơ bị đánh trong vụ án Nhân Văn. Phần phụ lục trích mỗi nhà thơ Nhân Văn hai bài, nhằm cung cấp tư liệu để độc giả tự đánh giá.<br /><br />Bạn bè thân quen bảo: “Ông Tố Hữu tuy bây giờ nghỉ làm việc, nhưng thế lực còn mạnh lắm, ông ấy vẫn có thể bóp chết anh bất cứ lúc nào.”<br /><br />Tôi đã trả lời: “Tôi hiểu điều ấy. Chính đấy là lý do khiến tôi phải viết khi ông ấy còn sống.” Bạn cứ lắc đầu hoài. Tôi phải nói thêm: “Nếu không thì trả lời thế nào với câu hỏi của người sau: “Sao khi ông ấy sống không thấy ai viết gì ?”<br /><br />Tôi đã chính thức gửi bài viết đến Tạp chí Văn học của Viện Văn học và vài tờ báo khác, cũng như gửi đến nhà thơ Tố Hữu. Không thấy đâu đăng, cũng không thấy đâu trả lời.<br /><br />Không sao! Không đăng là quyền của họ, trách nhiệm phải viết là quyền của tôi. Cho nên khi Tố Hữu mất, tôi đã không viết gì nữa, cho rằng trách nhiệm của mình đã xong. Nhân đọc trên báo Lao Động thấy nhà thơ Hoàng Cầm, người bị điêu đứng trong vụ án Nhân Văn, có bài thương cảm viếng nhà thơ Tố Hữu, gây cảm xúc mà bật ra mấy câu sau:<br /><br /> Tố Hữu mất đi<br /> Hoàng Cầm viết lời ai điếu<br /> Đăng đầu tiên, báo Lao Động, trang 5.<br /> Ông trời xanh rõ thật oái oăm<br /> Khiến dân đen bật cười khúc khích.<br /><br /> Hoàng Cầm vị thuốc đắng<br /> Nên giã tật rất tài.<br /> Chuyện thế gian,<br /> thôi, gác bỏ ngoài tai<br /> Phất tay áo,<br /> đến Trúc Lâm:<br /> “Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền<br /> Cư trần lạc đạo thả tùy duyên” (*)<br /> (*): Bài “Cư trần lạc đạo”của Trần Nhân Tông đệ nhất tổ Trúc Lâm thiền phái. Người viết xin phép đảo câu đầu và câu cuối.<br /><br /> (Tạm dịch:)<br /> Trước cảnh, tâm không, hỏi gì thiền<br /> Ở đời vui đạo cứ tùy duyên<br /><br /> (Xin được nối thêm:)<br /> Lòng không thù hận, hồn trong sáng<br /> Mở rộng yêu thương tới mọi miền.<br /> (12 – 12 – 2002)<br /><br />Gần đây, trong dịp toàn dân tưng bừng kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, tôi có được đọc bản thảo “Nhà thơ Tố Hữu tâm sự” của Nhật Hoa Khanh ghi, và các báo Quân Đội Nhân Dân, Tiền Phong, Người Hà Nội.... trích đăng vài phần, nhất là phần nói về đại tướng Võ Nguyên Giáp (báo Quân Đội Nhân Dân đăng 3 số liền), bỗng lại thấy rằng mình chưa thể thôi viết được. Với góc độ của người nghiên cứu đã viết về Tỗ Hữu, tôi thấy cần phải bàn cho ra sự thật.<br /><br />Tâm sự Tố Hữu của Nhật Hoa Khanh ghi hoàn toàn khác với Tố Hữu đã sống trước đây.<br /><br />Bản thảo được hoàn thành tháng 2 – 2004, đã được thông qua bà Vũ Thị Thanh, vợ ông Tố Hữu, được tung ra vào dịp cả nước hoan hỉ kỷ niệm Điện Biên Phủ, nhằm cái gì? Muốn thanh minh với đại tướng Võ Nguyên Giáp chăng? Võ đại tướng trong kỷ niệm 50 Điện Biên Phủ, có thể nói ông đã lại thắng một trận Điên Biên Phủ thứ hai. Cả nước ghi ơn ông. Tên tuổi ông và đức độ của ông sống lại, chói ngời trên cả nước.<br /><br />Một câu hỏi được đặt ra với người nghiên cứu, bản thảo thực sự đã viết xong từ tháng 5 – 1997 (theo Nhật Hoa Khanh), nghĩa là gần 6 năm sau Tố Hữu mới mất. Sao không công bố trong chuỗi thời gian ấy, lại để đến tận bây giờ ? Liệu có sâu xa tính toán gì như thơ di cảo của Chế Lan Viên ?<br /><br />Đã từ lâu nhiều người rất mong muốn nhà thơ Tố Hữu hãy xin lỗi anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" lấy một tiếng. Như nhà viết kịch Bửu Tiến đã làm trong một đại hội nhà văn. Như nhiều anh em văn nghệ khác đã hùa theo đánh anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" hồi ấy, nay đã nhận sai lầm, đã đến xin lỗi từng cá nhân. Cho lòng mình nhẹ nhõm, cho lòng bạn nhẹ nhõm. Nhưng Tố Hữu đã không làm.<br /><br />Nhà thơ Hoàng Cầm kể rằng, nhà văn tướng quân Trần Độ trưởng ban Văn hoá Văn nghệ của Đại hội Đảng lần VI, tổng bí thư lúc ấy là ông Nguyễn Văn Linh; người đẫ giúp tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố những câu đáng ghi vào lịch sử văn nghệ: “cởi trói cho văn nghệ sĩ” “các văn nghệ sĩ hãy tự cứu lấy mình” “không bẻ cong ngòi bút” “dũng cảm trình bày sự thật” ..vv...<br /><br />Trong cái không khĩ cởi mở ấy của Nghị quyết 5/BCT về văn học nghệ thuật, nhà văn Trần Độ có đến gặp Tố Hữu và hỏi ông về thái độ đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" bây giờ. Nhà thơ Tố Hữu với giọng trọ trẹ xứ Huế đã nói: “Rất tiếc! Rất tiếc! Hồi ấy tôi đã không tiêu diệt hết chúng nó đi.” Trên đường về ông Trần Độ có rẽ vào thăm ông Hoàng Cầm, có kể lại câu chuyện trên. Ông Hoàng Cầm đến nay còn sống, yếu lắm rồi, hiện ở số nhà 43 phố Lý Quốc Sư, Hà Nội. Ai có thắc mắc, xin đến đấy hỏi, kẻo rồi ông Hoàng Cầm đi mất, lại thành tam sao thất bản.<br /><br />Chuyện rỉ tai văn nghệ sĩ về Tố Hữu thì nhiều lắm. Nhất là cái hồi ông Tố Hữu làm phó thủ tướng phụ trách giá-lương-tiền, rồi đồn thổi có thể làm tổng bí thư. Cái bả vinh hoa ấy của ông Duẩn và ông Thọ đưa ra, có thể đã làm nhà thơ choáng váng trong hy vọng, và có thể hồi ấy đã phải biểu lộ những cư xử với Võ đại tướng để chứng tỏ lập trường của mình đứng về phía bên nào, nên sau này hối hận, cứ phải thanh minh trong lời tâm sự với Nhật Hoa Khanh, nói khá kỹ về lòng yêu quý đại tướng Võ NguyênGiáp, chiếm khá nhiều trang giấy, hai lần viện đến vợ là bà Vũ Thị Thanh làm chứng, không tin xin cứ đến hỏi.<br /><br />Chuyện rỉ tai từ Đại hội Đảng III (1961), phía ông Duẩn ông Thọ thuộc phái dùng bạo lực quân sự giải phóng miền Nam, được Tố Hữu ủng hộ, thắng thế. Ông Duẩn làm tổng bí thư. Cụ Hồ và ông Giáp là phía chủ trương hoà bình thống nhất đất nước, bị thiểu số, phải phục tùng theo đa số. Điều thực hư diễn biến ra sao thì sau này các nhà nghiên cứu lịch sử Đảng sẽ phải làm rõ. Đây chỉ là chuyện rỉ tai, ngoài lề cuộc họp. Nhưng nhờ đó có căn cứ để nhìn nhận được thái độ chuyển biến của từng người.<br /><br />Chuyện rỉ tai về Tố Hữu nói tổng tư lệnh thực sự công cuộc đánh Mỹ giải phóng miền Nam là đồng chí Lê Duẩn chứ không phải Võ Nguyên Giáp.<br /><br />Chuyện rỉ tai Tố Hữu xoá câu thơ về Võ Nguyên Giáp trong bài thơ “Hoan hô chiến sĩ Điện Biên”.<br /><br />Có lần trên màn tivi, quay cảnh đón phó thủ tướng Tố Hữu nhân một chuyến công cán ở nước ngoài về. Nhiều cán bộ cao cấp có mặt ở sân bay. Lần lượt Tố Hữu đi bắt tay từng người. Đến Võ Nguyên Giáp, khi ông Giáp giơ tay thì Tố Hữu lại quay đi chỗ khác như mải nói chuyện với ai. Những người ngồi xem cùng tôi bình phẩm: “Quá lắm! Thiếu lịch sự quá lắm!”<br /><br />Tổng tấn công Mậu Thân (1968) ông Duẩn điều ông Giáp đi Đông Âu, điều cụ Hồ sang Trung Quốc nghỉ ngơi, để rảnh tay tổng tiến công nổi dậy đồng loạt bao vây Khe Sanh (định tái diễn Điện Biên Phủ) và đánh vào Sài Gòn dứt điểm giải phóng miền Nam. (Thất bại. Sự việc này rồi lịch sử sẽ định giá).<br /><br />Kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, có vài bài trên báo, nhưng chỉ nói đến Sở chỉ huy chiến dịch chung chung, không nhắc đến tên ông Giáp. Đến Chúc văn giỗ tổ vua Hùng cũng bỏ đi hai câu nói về Điện Biên Phủ và Giải phóng Sài Gòn 30/4, thành ra bài Chúc văn 100 câu để ứng với huyền thoại 100 trứng 100 con, chỉ còn 98 câu.<br /><br />Ông Giáp hồi ấy được phân công phụ trách sinh đẻ kế hoạch. Bỗng lưu truyền những câu ca dao trôi nổi: “Ngày xưa đại tướng cầm quân. Ngày nay đại tướng cầm quần chị em.”, “Người đi từ cây đa Tân Trào đến cây đa Nhà Bò” (Cây đa Nhà Bò—cơ sở hộ sinh của quận Hai Bà, ở phố Lò Đúc, Hà Nội).<br /><br />Rồi những chuyện ông Giáp sợ Mỹ, sợ bom nguyên tử, ông Giáp với Khơ-rúp-sốp, ông Giáp lý lịch mờ ám, chuyện Năm Châu-Sáu Sứ khai báo vu vơ... Lại tin rỉ tai, đảo Tuần Châu tỉnh Quảng Ninh đã được chuẩn bị để ông Giáp ra sống biệt lập, giống Napoléon ở đảo Sainte Hélène. Có cả một cuốn hồi ký của ông phó thủ tướng thời ông Duẩn, khen ông Duẩn hết lời, chê ông Giáp quá đáng được in phôtô chuyền tay nhau ..vv...<br /><br />Thái độ ông Giáp là im lặng. Ông ngồi thiền. Lấy chữ Nhẫn của người xưa di dưỡng tinh thần.<br /><br />Và bây giờ thì ông sống lại, như một ngọn đèn rực sáng giây phút cuối, ông đã 94 tuổi trời, lá thư ông viết gửi Hội nghị Trung ương 9 Khoá IX đầu năm 2004, có thể coi là những lời tâm huyết cuối đời của vị tướng tài ba lỗi lạc; trong đó về đề mục an ninh nội bộ, ông khẩn thiết đề nghị Trung ương giải quyết dứt điểm vụ T4, một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng từ trước đến nay, và yêu cầu kỷ luật những ai vi phạm bất kể ở cương vị nào. (Không biết Bộ Chính trị sẽ giải quyết ra sao trước khi đại tướng về trời?)<br /><br />Ông Tố Hữu chỉ sau thất bại cuộc bầu vào Trung ương Khoá VI (1986), mới tỉnh ra, thấy bơ vơ, và sau này mới có bài “Một tiếng đờn”. Nghe kể, khi biết mình không trúng cử, ông thất thần, mất hồn, đến mức xe ô tô của ông đến đón, đỗ trước mặt, ông không nhận ra, cứ ngơ ngơ ngác ngác.<br /><br /> Một tiếng đờn<br /><br /> Mới bình minh đó đã hoàng hôn<br /> Đang nụ cười tươi lệ bỗng tuôn<br /> Đời thường sớm nắng chiều mưa vậy<br /> Khuấy động lòng ta biết mấy buồn.<br /><br /> Ôi kiếp trăm năm được mấy ngày<br /> Trời xanh không gợn áng mây bay<br /> Thủy chung son sắt nên tình bạn<br /> Êm ấm lòng ta mỗi phút giây.<br /><br /> Còn khổ đau nào đau khổ hơn<br /> Trái tim luôn sát muối oán hờn<br /> Còn đây một chút trong đêm lạnh<br /> Đầm ấm bên em một tiếng đờn.<br /><br />Bài thơ trên được giải thưởng văn học ASEAN. Họ trao giải cũng không phải là vô cớ. Có nhiều bài hoạ lại, vô danh, xin trích một bài trong số đó để bạn đọc được nghe nhiều tiếng chuông:<br /><br /> Nắng hè sao đã vội hoàng hôn ?<br /> Sao nụ cười tươi lệ bỗng tuôn ?<br /> Mới hay nhân quả là như vậy,<br /> Vui lắm thì ra cũng lắm buồn.<br /><br /> Danh lợi đua chen được mấy ngày ?<br /> Phù vân một thoáng gió xua bay.<br /> Thủy chung không có, đâu bè bạn ?<br /> Êm ấm làm sao được phút giây ?<br /><br /> Đúng vậy còn gì đau khổ hơn!<br /> Đời luôn khơi dậy những oán hờn,<br /> Còn đây một chút trong cô lạnh,<br /> Mới thấm Nhân Văn một tiếng đờn.<br /><br />Ông Tố Hữu về nghỉ. Sống cô đơn. Giấc mộng quyền lực không thành. Tôi tin là ông đã hối hận. Cho nên trong Lời tâm sự Nhật Hoa Khanh ghi, ông nói nhiều về ông Giáp, ca ngợi ông Giáp hết lời, như muốn thanh minh những điều gì không phải trước đây đã cư xử với ông Giáp. Đúng như một câu châm ngôn của phương Tây: Qui s’excuse s’accuse (Kẻ nào tự thanh minh là tự thú nhận).<br /><br />Đối với anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm" cũng như thế. Qua “Lời tâm sự” Nhật Hoa Khanh ghi thì tất cả đều là tốt, là đáng ca ngợi, là không ai đáng phải chê trách điều gì cả. Xin trích vài người:<br /><br /> 1). Về cụ Phan Khôi “Không thể quên được hình ảnh gương mẫu và nồng nhiệt của cụ trong đội quân Văn nghệ kháng chiến chống Pháp. Không thể bỏ qua được những kết quả của cụ trong việc đổi mới thơ Việt Nam trước khi xuất hiện phong trào thơ mới. Phan Khôi còn là một học giả về văn học Trung Quốc. Muốn hay không, cụ cũng đã có một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học nước ta thế kỷ 20.” (trg 39. Lời tâm sự)<br /><br /> 2). Về ông Trương Tửu “Trương Tửu có năng lực đặc biệt về phê bình và lý luận văn học. Không thể tùy tiện quy kết anh là cơ hội, là tờ-rốt-kít. Đến bây giờ chúng ta đều rõ: anh sống thẳng thắn, sống lương thiện và hết lòng với các công trình nghiên cứu của mình. Cần khẳng định những đóng góp độc đáo của anh đối với phê bình và lý luận văn học.” (trg 39. Lời tâm sự)<br /><br /> 3). Về ông Trần Đức Thảo được Tố Hữu dùng cụm từ người trí thức yêu nước lỗi lạc, rồi tiếp: “Anh Thảo vừa nổi tiếng trong phong trào chống thực dân Pháp vừa nổi tiếng trên lĩnh vực nghiên cứu triết học Mác-xít ngay từ hồi anh đang học đại học Xoóc-bon và làm việc tại Pa-ri. Anh Thảo suốt đời bảo vệ chủ nghĩa Mác, kể cả khi Liên Xô đã sụp đổ. Anh Thảo là một nhà nghiên cứu triết học tài giỏi nhất ở nước ta. Anh Thảo có công lớn nhất trong việc phát triển ngôn ngữ lý luận Việt Nam, phát triển ngôn ngữ triết học Việt Nam, phát triển tư duy triết học và tư duy luận lí (tức tư duy lô-gích) Việt Nam. Trần Đức Thảo là một mẫu mực của lòng say mê nghiên cứu và sáng tạo vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên lĩnh vực triết học.” (trg 51. Lời tâm sự)<br /><br /> 4). Về ông Nguyễn Hữu Đang “người được Bác Hồ trao cho nhiệm vụ trọng đại Trưởng ban Tổ chức Lễ Tuyên ngôn Độc lập mồng 2-9-1945. Anh Đang suốt đời trung thành với Bác Hồ và với lý tưởng Độc lập-Tự do của dân tộc. Anh Đang đóng góp nhiều cho cách mạng nhưng đóng góp lặng lẽ. Anh Đang có nhiều hy sinh đáng qúy. Những hy sinh ấy chính là tấm gương sáng ngời treo cao trước mắt chúng ta.” (trg 54. Lời tâm sự)<br /><br /> 5). Về ông Đào Duy Anh “Tôi sẽ thiếu sót rất nặng nếu không bày tỏ cảm nghĩ của mình về học giả lớn và nhà yêu nước Đào Duy Anh. Từng là tổng bí thư và sau đó, là một trong những người thuộc bộ phận tiên tiến của Tân Việt Cách mạng đảng, Đào Duy Anh đã lặng lẽ và bền bỉ hiến dâng toàn bộ tài năng và nhiệt huyết của mình cho độc lập và tự do của dân tộc đến hơi thở cuối cùng. Hàng chục tác phẩm của ông bao gồm các loại từ điển và các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam ..vv... trở nên một hạt ngọc trong chuỗi ngọc di sản văn hoá dân tộc. Hồi ký của ông là hình ảnh trung thực của chính ông và của các đồng chí, đồng nghiệp cùng thế hệ ông suốt mấy chục năm bão táp đấu tranh cứu nước. Trên mặt trận văn hoá và tư tưởng Việt Nam thế kỷ 20, Đào Duy Anh được nhìn nhận như một nhà yêu nước, một nhà đạo đức, một bậc hiền tài.” (trg 55. Lời tâm sự)<br /><br /> 6). Nhắc đến các văn nghệ sĩ "Nhân Văn - Giai Phẩm" bị đánh tơi bời Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán, Hữu Loan, Quang Dũng, sau khi khen từng người cùng những tác phẩm của từng người, Tố Hữu nhận xét: “Tất cả 6 anh đều góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng một nền văn học Việt Nam giàu tính hiện thực, tính phê phán, tính hiện đại và tính truyền thống. Tất cả 6 anh đều bền bỉ tiến bước dưới ngọn cờ cách mạng. Tất cả 6 anh đều là những nhà văn nghệ luôn luôn giữ vững phẩm vàng đạo đức của người cầm bút. Tất cả 6 anh đều xứng đáng được trao tặng những giải thưởng cao quý và những huân chương cao quý.” (trg 34. Lời tâm sự)<br /><br />Ông Tố Hữu còn nói về nhiều anh chị em khác, toàn khen là khen, với những lời rất tốt đẹp. Tôi chỉ xin trích vài trường hợp, để làm một việc so sánh, với những nhận xét của Tố Hữu trước đây, khi ông còn đương quyền đương chức, đang chỉ đạo cuộc đánh phá anh em "Nhân Văn - Giai Phẩm".<br /><br />Tài liệu sau đây lấy trong báo cáo tổng kết cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm”, do chính Tố Hữu viết, với tiêu đề “Qua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn - Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ”, đã in thành sách, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, trong thư viện quốc gia.<br /><br />Nhận định tổng quát về “Nhân Văn - Giai Phẩm” Tố Hữu viết:<br /><br /> + Lật bộ áo “Nhân Văn - Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật tham, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm. (trg 9. Sđd)<br /><br /> + Trong cái công ty phản động “Nhân Văn - Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ. (trg 17. Sđd)<br /><br /> + Với sự thuyết phục của Trần Đức Thảo, báo Nhân Văn cũng “chuyển mạnh sang chính trị”, nghĩa là đi đến “hành động quần chúng”. Những bài đánh vào nền chuyên chính, đòi phát triển tự do tư sản, đòi cho hoa độc, hoa thối tự do đua nở và đả kích từ quân đội, công an, mậu dịch, sở báo chí, cho đến cả quốc hội cũng không đủ nữa [ .... ] Chúng muốn gì? Trương Tửu, Trần Đức Thảo, Nguyễn Hữu Đang và cả bọn họ luôn luôn tuyên truyền “sẽ có biến động lớn”. Rõ ràng chúng không muốn gì khác hơn Mỹ-Diệm: lật đổ chế độ dân chủ cộng hoà và Đảng lãnh đạo. (trg 18. Sđd)<br /><br /> + Chúng phân công nhau: Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm ở Hội Nhà văn, Sĩ Ngọc ở Hội Mỹ thuật, Chu Ngọc, Hoàng Tích Linh ở Hội Nghệ sĩ sân khấu, Tử Phác, Đặng Đình Hưng ở Hội Nhạc sĩ .... Còn Nguyễn Hữu Đang, hắn vẫn tiếp tục làm vai trò của kẻ tổ chức phá hoại cùng bọn gián điệp Thụy An, bọn trốt-kít Trương Tửu, “quân sư”Trần Đức Thảo, và những kẻ khác ... (trg 21. Sđd)<br /><br /> + Không thể che giấu được cái lịch sử phản cách mạng của Phan Khôi một đời những 5 lần phản bội, phá hoại phong trào cách mạng; không thể che giấu được cái dã tâm của tên đầu cơ cách mạng Nguyễn Hữu Đang hơn 10 năm trời vì cái đầu óc cường hào xôi thịt như cái gốc của hắn, mà luôn luôn bất mãn, kèn cựa, hằn học, dần dần đi vào con đường làm phản, bán mình cho kẻ địch, đánh lại nhân dân, tổ quốc, đánh lại chế độ chúng ta; không thể che giấu được cái chân tướng trốt-kít thâm căn ngót 20 năm nay của Trương Tửu và cái cốt cách đen tối của Trần Đức Thảo “đứa con nuôi của đế quốc” như y đã tự nhận; cũng không thể che giấu được chân tướng của bọn gián điệp như Thụy An, mật thám như Trần Duy, trước kia đã từng “lập công” với bọn chủ Pháp, nay lại ngựa quay về đường cũ; và những phần tử phản động trong giai cấp tư sản tích cực ủng hộ bọn chúng như Trần Thiếu Bảo (nhà xuất bản Minh Đức) .... (trg 43. Sđd)<br /><br />Cũng xin trích dẫn một số đề mục của bản báo cáo tổng kết để bạn đọc thấy cuộc đấu tranh chống “Nhân Văn - Giai Phẩm” dữ dội đến thế nào:<br /><br /> [.....] Những tư tưởng chính trị thù địch<br /><br /> 1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.<br /> 2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.<br /> 3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách nạng xã hội chủ nghĩa.<br /> 4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản. <br /><br /> Những quan điểm văn nghệ phản động<br /><br /> 1. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực té là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “ sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.<br /> 2. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.<br /> 3. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.<br /> 4. Nhóm “Nhân Văn - Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng. [......] <br /><br />Còn có thể trích dẫn nhiều nữa, nhưng thiết tưởng đã đủ để bạn đọc nhận ra: đã có hai Tố Hữu, khác hẳn nhau như nước với lửa, như lòng bàn tay với mu bàn tay.<br /><br />Vậy Tố Hữu nào mới là thật Tố Hữu ?<br /><br />Trong bản báo cáo tổng kết về “Nhân Văn - Giai Phẩm” (1958), Tố Hữu có hai lần trích lời Lê Duẩn. Mặc dù lúc ấy Lê Duẩn chưa làm tổng bí thư, nhưng chiều hướng đang lên, rồi sẽ làm. Những câu trích ấy cũng bình thường, chưa phải lời vàng ý ngọc gì - nhưng Tố Hữu cứ trích,vì ông là người khôn ngoan, tính được nước cờ.<br /><br /> Ví dụ 1: Đúng như đồng chí Lê Duẩn nhận xét: “Trong kháng chiến chủ nghĩa cá nhân chưa bị đánh tan, nó mới bị dồn ép lại một góc, nên đến khi có điều kiện, thì nó vùng dậy một cách hờn giận.” (trg 31. Sđd)<br /><br /> Ví dụ 2: Như đồng chí Lê Duẩn nói: “Phải biết thấy cái chồi xanh mọc lên dưới chân cây chuối úa vàng. Nếu không, sẽ chỉ thấy những lá úa che lấp mà không thấy chồi non, sẽ bi quan thất vọng.” (trg 33. Sđd)<br /><br />Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi năm 1997, không thấy trích dù một lời của ông Lê Duẩn nữa. Vì ông Duẩn (và cả ông Thọ) đã mất, để lại nhiều tai tiếng. Còn ông Giáp vẫn sống, uy tín ngày càng cao, nhất là trong dịp kỷ niệm nửa thế kỷ chiến thắng Điện Biên Phủ, tên tuổi ông lại rực sáng lên như một ngọn hải đăng.<br /><br />Con người biết sám hối là điều rất đáng được trân trọng. Biết sám hối, biết hối hận làm con người trong trắng hơn lên, cao đẹp hơn lên. Nhưng cần sám hối thành thật và sòng phẳng với những sai lầm trước đây của mình.<br /><br />Trong Lời tâm sự Tố Hữu Nhật Hoa Khanh ghi không thấy lời nhận lỗi hoặc xin lỗi những nạn nhân trước đây của mình, ai cũng được ông Tố Hữu đánh giá rất cao, rất tốt đẹp, chỉ thấy khen là khen. Những thế hệ bây giờ không biết chuyện cũ, cứ tưởng ông Tố Hữu rất tốt với mọi người, rất đáng kính và rất đáng yêu, ông không thù ghét ai, làm sao ông Tố Hữu lại có thể đánh những tài năng văn nghệ như anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được ? Ông Tố Hữu đã viết trong Lời tâm sự:<br /><br /> “Bất cứ một người nào, nếu tìm cách này hoặc cách khác “đánh” đồng đội và đồng nghiệp thì người đó sớm muộn sẽ chết trong trái tim của thế hệ cùng thời hoặc các thế hệ mai sau” (trg 64. Sđd)<br /><br />Rất tiếc là ông Lê Duẩn và ông Lê Đức Thọ đã mất rồi. Nếu các ông sống lại và được đọc những dòng trên, và tự liên hệ bản thân, thì phải khen ông Tố Hữu nói giỏi, nói rất giỏi.<br />Phần viết thêm:<br /><br />Chúng tôi phải cảm ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì biết công sức anh bỏ ra thật là không nhỏ cho bài viết “Gặp Tố Hữu tại biệt thự 76 Phan Đình Phùng”dài 67 trang vi tính khổ A4. Tôi hình dung anh phải gỡ những băng ghi âm cuộc hỏi chuyện kéo dài 7 tiếng đồng hồ (từ 2 giờ chiều đến 9 giờ tối) vất vả đến thế nào, sắp xếp lại câu chữ gọn gàng cho lọt mắt người đọc, vì văn viết khác với văn nói.<br /><br />Và như vậy phải thấy là ông Tố Hữu có một trí nhớ phi thường. Người già 77 tuổi, lại đau ốm, cứ ho luôn trong buổi hỏi chuyện, mà nhớ được như vậy, các sự việc, tên người, rất nhiều tên người và tên tác phẩm của từng người, ông Tố Hữu nhớ lại được hết trong một buổi nói chuyện, mạch lạc, đâu ra đó. Thật khó mà tuởng tượng nổi. (Người có trí nhớ như vậy hẳn ông Tố Hữu khó có thể quên những gì ông đã kết tội anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” trước đây.)<br /><br />Qua lời văn mà lột tả được tính cách con người, tôi thấy anh Nhật Hoa Khanh thành công ở đoạn Tố Hữu nói về Phạm Duy:<br /><br />(Xin trích một chút) Nhật Hoa Khanh hỏi Tố Hữu:<br /><br /> “- Thưa anh, trong hồi ký về thời kháng chiến chống Pháp của mình, nhac sĩ Phạm Duy có kể: tại hội tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc (1948) Tố Hữu bác bỏ vai trò của mấy thể loại kịch thơ, chèo, tuồng và cải lương trong nền văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Thực hư ra sao, xin được biết ý kiến của anh.<br /><br /> Với gương mặt đượm vẻ không hài lòng, Tố Hữu trả lời:<br /> - Tôi chưa biết việc nhạc sĩ Phạm Duy đã xuất bản hồi ký. Điều nhạc sĩ Phạm Duy nói về tôi như anh vừa mới cho biết, tôi thấy không cần phải trả lời. Tôi không cãi nhau với Phạm Duy. Tôi đã mười năm ở trong Bộ Chính trị, tôi không cãi nhau với Phạm Duy.” (trg 4. Lời tâm sự)<br /><br />Một đối thoại nhỏ vậy, bộc lộ hết tính cách của Tố Hữu. Một con người rât vụ vào quyền lực. Khá lạnh lùng với anh em. Có thể Nhật Hoa Khanh không cố ý nhưng anh đã lột tả đúng chân tướng của Tố Hữu. Thật tài tình. Thời xưa là khuyên đỏ, bây giờ thì rất đáng điểm 10.<br /><br />Chúng tôi còn phải cám ơn anh Nhật Hoa Khanh, vì nhờ bài viết của anh mà tôi lại có dịp được bàn thêm về Tố Hữu và anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”. Ở bài viết này tôi chỉ xin cung cấp một ít tư liệu xưa về “Nhân Văn - Giai Phẩm”, để độc giả ngày nay tự phán xét.<br /><br />Cuối cùng, điều tôi muốn nói là ông Tố Hữu sám hối thật hay chưa thành thật, điều ấy không quan trọng, sự thực là ông đã thanh minh với ông Giáp và với anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm”, có nghĩa là trong thâm tâm ông đã nhận ra cái sai của mình trước đây.<br /><br />Cái sai của cải cách ruộng đất thì Đảng đã nhận ra, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Đảng và Chính phủ xin lỗi nhân dân (1956). Công tác tiến hành sửa sai được thực hiện ngay sau đó.<br /><br />Cái sai của vụ án “Nhân Văn - Giai Phẩm”, 30 năm sau Đảng đã nhận ra, với lời tuyên bố của cố tổng bí thư Nguyễn Văn Linh: “Cởi trói cho văn nghệ sĩ” (1986). Tuy không chính thức xin lỗi, nhưng đã sửa sai, anh em “Nhân Văn - Giai Phẩm” được phục hồi công việc, được xuất bản những sáng tác phẩm.<br /><br />Thế mà phải 40 năm sau (1997) ông Tố Hữu mới có lời tâm sự để Nhật Hoa Khanh ghi, đã không nhận lỗi phần mình mà chỉ ra sức thanh minh. Thế mới biết tư tưởng con người thay đổi chậm chạp, nhất là những người một thời có quyền lực lớn.<br /><br />Còn vụ án Xét Lại - Chống Đảng những năm 1966—1968, thì sau này ông Nguyễn Trung Thành người phụ trách công tác bảo vệ Đảng hồi bấy giờ, người đứng vị trí thứ hai sau ông Lê Đức Thọ thụ lý vụ án Xét lại-Chống Đảng, đã chính thức gửi đơn minh oan cho 38 cán bộ Đảng trung cao cấp bị kết tội oan.<br /><br />Vậy là trong quá trình cư xử với nhau chúng ta đã có những sai lầm. Đã làm tổn hại đến những thành phần tinh hoa của đất nước.<br /><br />Tôi tha thiết đề nghị các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay nên rút những kinh nghiệm xưa, để đừng mắc phải những sai lầm đáng tiếc bây giờ. Trước mắt là vụ bắt bớ giam cầm những người lên tiếng về dân chủ, về chống tham nhũng, về đất đai biên giới ..v.v..... vu cho họ tội gián điệp, kết án nặng nề như các ông: cựu chiến binh quân giải phóng miền Nam Nguyễn Khắc Toàn, cử nhân luật Lê Chí Quang, bác sĩ Phạm Hồng Sơn, nhà báo Nguyễn Vũ Bình; và đang giam giữ chờ xét xử là các ông: nhà nghiên cứu văn hoá Hán Nôm Trần Khuê, đại tá tổng biên tập tạp chí Lịch sử quân sự, nhà báo Phạm Quế Dương, nhà đấu tranh dân chủ nổi tiếng bác sĩ Nguyễn Đan Quế ...vv...<br /><br />Những con người ưu tú kể trên mà bị quàng tội là gián điệp thì thật không thể nào hiểu nổi.<br /><br />Chúng ta đã nhận ra phần dân chủ của đất nước còn yếu kém. Nên Đại hội Đảng IX đã phải đưa hai chữ dân chủ vào nghị quyết. Có nghị quyết rồi thì phải thi hành. Hiểu đơn giản về dân chủ là phải biết lắng nghe những ý kiến khác với chủ kiến của mình. Nên chấm dứt dùng bạo lực đàn áp những người khác chính kiến. Nên tạo một thói quen bàn bạc, tranh luận, tìm ra đồng thuận.<br /><br />Kẻo rồi sau này lại phải hối hận, rằng, bước vào thế kỷ thứ 21, nước ta sao mà lắm gián điệp đến thế ???<br /><br />Nói lại chuyện “Nhân Văn - Giai Phẩm” xưa kia, để rút kinh nghiệm cho công việc đất nước hôm nay, như thế gọi là ôn cố tri tân (ôn cũ biết mới), nó là điều cần thiết để đất nước đi lên vậy.<br /><br />Tôi kính chuyển bài viết này tới các vị lãnh đạo Đảng - Nhà nước, và kính chuyển tới tất cả bạn đọc. Có điều gì không phải mong được thứ lỗi trước.<br /><br />Hà Nội ngày 6 tháng 6 năm 2004<br />Hoàng Tiến, nhà văn<br /><br />Địa chỉ:<br /> Nhà A 11 Phòng 420<br /> Thanh Xuân Bắc—Hà Nội.<br /><br />Nơi gửi:<br /> - Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước<br /> - Ban Tư tưởng—Văn hoá<br /> - Bộ Văn Hoá<br /> - Bộ Công an<br /> - Hội Nhà văn Việt Nam<br /> - Hội Nhà văn Hà Nội<br /> - Các cơ quan báo chí, thông tấn<br /> - Bè bạn văn nghệ sĩ<br /> - Các bạn đọc quan tâmVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-70407991183608640002009-08-07T00:11:00.000-07:002009-08-07T00:13:14.077-07:00No40: Thơ Tố Hữu và thơ truyền miệngBBT: Tác giả hiện đang công tác tại một tờ báo trong nước, là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam đã viết thư cho ĐCV như sau: “Trí thức ở Việt Nam, giàu nó ghét, nghèo nó khinh, tài giỏi thông minh nó không sử dụng”. Tác giả nhất định không làm “trí thức trùm chăn” và muốn qua những bài viết cho Đàn Chim Việt “tước đi những đoá hoa trao không đúng chỗ” của chế độ hiện nay.<br /><br /> Để tránh những rắc rối có thể xảy ra bởi nhà đương cuộc Hà Nội, tác giả phải dùng bút danh Hoàng Sơn Tiên.<br /><br /> Ban Biên tập Đàn Chim Việt chân thành cám ơn các nhà văn, phóng viên khác trong nước đã dũng cảm viết bài cho chúng tôi để chuyển đến đồng bào ở nước ngoài.<br /><br /> Lịch sử vốn công bằng, vay gì phải trả nấy, Tố Hữu đã vay quá nhiều vinh hoa phú quý ở đời từ sự bất hạnh khốn khổ ngoi ngóp của đồng nghiệp nên thơ đã kịp chết ngay khi nhà thơ còn lù lù sống.<br /><br /><br />Vào thập kỷ cuối 1950, khi đám Nhân văn Giai phẩm bị đánh tới tấp không còn một mảnh giáp che thân, thơ Tố Hữu bỗng nổi lên như một hiện tượng lạ trong nền văn hoá nước nhà. Sừng sững, xum xuê, tươi tốt, trường tồn - không tác giả nào bằng ...<br /><br />Thập kỷ 80 trôi nhanh. Sau vụ đổi tiền khiến bao gia đình khuynh gia bại sản, dở mếu dở cười, vì đồng tiền mất giá cả trăm lần, là lời tổng bí thư Nguyễn văn Linh hô hào "cởi trói" cho cánh nhân văn giai phẩm. Một loạt tác phẩm bị đánh được đăng tải lại, hầu như không ai còn đọc Tố Hữu nữa. Các đề thi của các trường đại học, các sách do các nhà xuất bản in cũng vắng dần đề tài Tố Hữu. Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, hễ nói đến Tố Hữu là độc giả nhún vai: Tố Hữu ư? Hết thời rồi, ông ta vốn chỉ giỏi tụng ca thôi, thời buổi này ai thèm tụng ca theo ông ấy nữa. Không ít người bặm trợn, huỵch toẹt luôn : "Ôi giời ! Chẳng qua chỉ là một kẻ xu thời, nịnh bợ. Sợ cảnh trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng nên cố tình đánh đu với chính trị, triệt hạ anh em, tố cho họ cái tội nhân văn giai phẩm. Nếu không thứ hoa lòe loẹt, không hương sắc của ông ta có nở rộ giữa đời được không? Khi so với những bài: "Màu tím hoa sim" của Hữu Loan, "Bên kia sông đuống" của Hoàng Cầm, "Lời mẹ dặn" của Phùng Quán, "Nhất định thắng" của Trần Dần ... Còn tiếng, dẫu không phải mảnh chĩnh vứt ngoài bờ tre cũng không thể là chuông đồng, chuông khánh chuyên đặt trong nhà thờ được, vậy thì đua làm sao với các nhà thơ cùng thời khác? Tâm linh kẻ tiểu nhân đã mách bảo ông ta điều đó nên trong cơn sợ hãi, ông ta tung đòn đánh trước, đánh rất trúng đích bằng cây gậy chỉ huy của Đảng để vô hiệu hóa một loạt nhà thơ danh tiếng ... chỉ còn mình ông ta độc diễn, từ vi mô đến vĩ mô, gi gỉ gì gi cái gì cũng diễn ... Các đảng ủy viên trong trung ương Đảng và chính phủ bỗng dưng thấy có một thằng khùng, sẵn sàng bỏ cuộc đời để theo mình, ca ngợi mình, liền ấn thành tượng luôn chứ thơ hắn, nào có ấn tượng gì ?"<br /><br />Hỏi chuyện Hữu Loan, Hoàng Cầm , Lê Đạt, Trần Dần - những tài hoa tinh anh của đất nước bị nhét chung vào rọ "nhân văn giai phẩm" cho lên ô tô bịt bùng với còng số 8 thả khắp nơi , từ nhà tù, trại cải tạo, trang trại nơi đồng không mông quạnh, vùng thôn quê hẻo lánh, heo hút v.v ... Ba mươi năm sau được xổng, thì sức đã tàn, lực đã kiệt, tài năng hư hao, lụi tàn...Tất cả cùng chung nhận định: Tố Hữu chỉ là một nhà thơ trung bình, suốt đời chỉ nói có một ý, nghĩ có một chiều và chỉ làm một việc duy nhất là tôn vinh Đảng cộng sản Việt Nam để một thằng tầm tầm như hắn còn được hít bã, ăn tàn dài dài. Hệt câu chuyện được lưu truyền khắp thế giới về một kẻ nịnh thần: Vẫn biết là rắm rất thối, và rắm của kẻ chuyên ăn sơn hào hải vị còn thối gấp trăm nghìn lần dân thường, chỉ có rau xanh và cám bã thừa, vậy mà hắn vẫn tâu: Thưa bệ hạ! rắm của ngài thơm lắm ạ...<br /><br />Lịch sử vốn công bằng, vay gì phải trả nấy, Tố Hữu đã vay quá nhiều vinh hoa phú quý ở đời từ sự bất hạnh khốn khổ ngoi ngóp của đồng nghiệp nên thơ đã kịp chết ngay khi nhà thơ còn lù lù sống. Oái oăm thay, chính nhân dân đã dùng những vần thơ nhái, thay cuốc, xẻng gậy gộc để đập chết và đào huyệt chôn thơ Tố Hữu , trả thù việc Tố đã dùng gậy của Đảng để đánh anh em trước đó . Ví dụ bài Bầm ơi, nhân dân truyền miệng:<br /><br />Bầm ơi có rét không bầm<br /><br />Hon đa con cưỡi, gà hầm con xơi<br /><br />Con thương bầm lắm bầm ơi<br /><br />70, bầm vẫn phải ngồi nhá khoai<br /><br />Hay bài thơ ca ngợi Đảng :<br /><br />50 tuổi Đảng và thơ<br /><br />Từ ấy thơ đui đến tận giờ<br /><br />Tóc mặn muối tiêu thơ nước ốc,<br /><br />Thương con tằm bệnh nhện nhường tơ<br /><br />Thuyền rò vượt sóng thuyền ngoi ngóp<br /><br />Mộng lớn thăng quan hết ngóng chờ<br /><br />Mới nửa đường quan, cầu đã gãy<br /><br />áo quan* muốn mặc, chớ đòi thơ!<br /><br />Bài Một tiếng đờn:<br /><br />...Danh lợi đua chen được mấy ngày<br /><br />Phù vân một thoáng gió xua bay<br /><br />Thủy chung không dễ đâu bè bạn<br /><br />Êm ấm hồn sao được phút giây<br /><br />Đúng vậy còn gì đau khổ hơn<br /><br />Đời chuyên khi dạy nỗi oán hờn<br /><br />Còn đây một chút trong cỏ lạnh<br /><br />Mới thấm nhân văn một tiếng đờn<br /><br />Trong 100 chân dung các nhà thơ , Xuân Sách cũng dùng bút thần để họa chân dung Tố Hữu<br /><br />Ta đi tới đỉnh cao muôn trượng<br /><br />Mắt trông về tám hướng phía trời xa<br /><br />Chân dép lốp bay vào vũ trụ<br /><br />Khi trở về ta lại là ta<br /><br />Và:<br /><br />Từ ấy tim tôi ngừng tiếng hát<br /><br />Trông về Việt Bắc tít mù mây<br /><br />Nhà càng lộng gió thơ càng nhạt<br /><br />Máu ở chiến trường hoa ở đây<br /><br />Hai khổ thơ của Xuân Sách đã sớm đi vào lòng người Việt Nam vì vừa là tên các tập thơ của Tố Hữu, vừa ám chỉ chất lượng thơ ca - được ở biệt thự rộng rãi, bề thế 1,500 mét vuông mà nhạt như nước ốc, ngược hoàn toàn với cảnh khốn cùng của các nhà thơ Việt Nam lúc ấy, cũng là chứi khéo hắn vì những vần thơ hiếu chiến, hiếu sát, quá coi rẻ mạng người...Trong khi ông bà dạy: máu đổ một giây, di họa một đời, thì Tố Hữu vung bút ca ngợi sự đổ máu :<br /><br />Cứ xốc tới, cứ chảy máu, cứ rơi đầu<br /><br />Mỗi xác thây sẽ là một nhịp cầu<br /><br />Cho ta bước tới chân trời khát vọng<br /><br />Lớp hậu sinh còn ngồi trên ghế nhà trường khi bắt buộc phải phát biểu về thơ Tố Hữu, không dám nói một cách mạnh bạo nhưng dám nhận định không còn phù hợp với thời đại nữa .Ví như bài ca mùa xuân 1968, Tố Hữu viết đầy ngô ngọng, máy móc:<br /><br />Mà nói vậy trái tim anh đó<br /><br />Rất chân thật chia ba phần tươi đỏ ...<br /><br />Bị nhại thành :<br /><br />Tháng lương anh chia ba phần to nhỏ,<br /><br />Anh giành riêng trả nợ phần nhiều<br /><br />Phần cho em và phần để anh tiêu<br /><br />Em xấn sổ thế cũng đòi sòng phẳng<br /><br />Rồi hai đứa tay bo, hai thằng lỏng chỏng ...<br /><br />Còi xe cấp cứu "ủ" váng đường<br /><br />Khổ thơ đầu của bài Từ ấy, sau hàng chục lần chứng kiến cảnh lũ lụt của đồng bào, trái ngược hoàn toàn với tâm hồn hoa lá, chim muông của Tố Hữu, cả dân tộc phải ngậm ngùi thốt lên:<br /><br />Từ ấy nước tôi tràn lũ lụt<br /><br />Màn trời, chiếu nước, khắp muôn nơi<br /><br />Làng tôi là một đồi hoang hoá<br /><br />Hết sạch hương và bặt tiếng chim ca ...<br /><br />Cả bài thơ bốn khổ được các bậc tiên chỉ trong làng thơ, mỗi người góp một ý, sửa một câu, thành một bài toàn bích, nội dung ngược hẳn với bản sáng tác cũ :<br /><br />Từ ấy trong tôi bừng chính trị<br /><br />Một trời mưu kế cháy trong tim<br /><br />Hồn tôi là một hầm giam giữ<br /><br />Máu người dân và xác các nhà văn<br /><br />Tôi đã là cha của mọi thằng<br /><br />Là anh của một lũ háo danh<br /><br />Là em của bọn người cơ hội<br /><br />Không lương tâm, lừa dối mị dân<br /><br />Tôi quyết trèo lên cổ giống nòi<br /><br />Văn nhân giai phẩm đánh không thôi<br /><br />Từ :Đang, Cao ,Thăng, tới Cầm, Tuân, Bão...*<br /><br />Kìm kẹp tang thương trọn kiếp người<br /><br />Tôi buộc người dân sống đoạ đày<br /><br />Để tiền trượt giá, có như không<br /><br />Để người dân sống trong cùng khổ<br /><br />Không áo cơm, cù bất cù bơ ...<br /><br />Ngày truyền hình phát bộ phim Bao công của Trung Quốc, trí tuệ dân gian lại được thể phát lộ và lưu truyền trong quần chúng bài Tố hữu ca nổi tiếng, dựa theo nhạc phim Bao Công xử án :<br /><br />Cụ Tố Hữu bước chân ra đường<br /><br />Xe đạp kia bỗng dưng lao vào<br /><br />óc với tim dính liền cùng thịt da...<br /><br />Hồn Tố Hữu đã vô quan tài<br /><br />Bao người theo tiễn đưa lên đài...<br /><br />Ai cũng khen thơ cụ : thật là hay...<br /><br />Thịt với da tim óc dính liền<br /><br />(Bao đời nay có ai như vầy )<br /><br />Ôi quái thai thời đại, thật là siêu ...<br /><br />Khi ấy Tố Hữu vẫn sống nhăn, kiên quyết không nghe theo lời khuyên của tướng Trần Độ là xin lỗi anh em văn nhân giai phẩm đã bị hàm oan bao năm trước đó, dù biết hổ chết để da, người ta chết để tiếng.<br /><br />Ngày Tố Hữu chết, so sánh với cái chết của lão tướng Trần Độ , cựu chiến binh Hoàng Giáp viết:<br /><br />Người đời vẫn gọi ông<br /><br />Là tướng công Trần Độ<br /><br />Người đời lại gọi hắn<br /><br />Là cho - thêm sắc vào*<br /><br />Lễ tang ông không mời<br /><br />Dân vẫn ào ạt tới<br /><br />Lễ tang hắn cử người<br /><br />Mà vắng ngơ vắng ngắt<br /><br />Tài liệu ông, chúng bắt<br /><br />Dân phát tận mây xanh<br /><br />Tài liệu hắn, chúng đọc<br /><br />Dân sửa lại chức danh...<br /><br />Cay đắng nhất là bài thơ cuối cùng Tố Hữu gửi lại cho đời, bị cánh nhà thơ, nhà báo sửa lại bằng cách thêm một dấu sắc vào hai chữ cho ở câu cuối rồi rỉ tai nhau lan khắp hội , ngoài phường:<br /><br />Xin gửi bạn đời yêu quý nhất<br /><br />Còn mấy vần thơ một nắm tro,<br /><br />Thơ gởi cuộc đời, tro bón đất<br /><br />Sống là CHO và chết cũng là CHO (!)<br /><br />Quả là chẳng còn gì để nói về con người - sống như chết , anh hèn đốn mạt này, xác đáng bằng câu thơ đã được thêm dấu sắc trên. Hy vọng họ nhà Khuyển không lấy làm chạnh lòng về điều ấy ...<br /><br />Góc thành Nam 2004, Hà Nội<br /><br />Bản quyền của DCVMedia Corp.<br />(*)<br /><br />- Nguyễn Hữu Đang : Thứ trưởng bộ thanh niên bị đi cải tạo 25 năm tại Lai Châu, sau khi về quê ở thái Bình còn tiếp tục bị quản thúc<br /><br />- Văn Cao tiên chỉ của làng văn Việt Nam, tác giả của bài Quốc ca (Thiên thai từ giã về dương thế, nhắc chi ngày ấy buồn lòng ta)<br /><br />- Hoàng Cầm nhà thơ<br /><br />- Phù Thăng tác giả cuốn Phá vây( Phá vây rồi lại chết mòn trong vây)<br /><br />- Hà minh Tuân: Tác giả cuốn Vào đời( 40 tuổi mới vào đời, ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ)<br /><br />- Nhà văn Vũ Bão tức Phạm Thế Hệ với tiểu thuyết đầu tay: Sắp cưới<br /><br />(Sắp cưới có thằng phá đám, Nên ông chửi bố chúng mày lên...) v.vVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-51675945652695805882009-08-07T00:05:00.000-07:002009-08-07T00:10:39.278-07:00No39: Qua Nhà Trần Bất Lương, Nhớ Bà Phạm Thị Dấn<a onblur="try {parent.deselectBloggerImageGracefully();} catch(e) {}" href="http://3.bp.blogspot.com/_zHppN2nb7rs/SnvTN25a6MI/AAAAAAAAABg/yWM5WFOb5P4/s1600-h/nguyenthaibinh150206.jpg"><img style="float:right; margin:0 0 10px 10px;cursor:pointer; cursor:hand;width: 300px; height: 213px;" src="http://3.bp.blogspot.com/_zHppN2nb7rs/SnvTN25a6MI/AAAAAAAAABg/yWM5WFOb5P4/s320/nguyenthaibinh150206.jpg" border="0" alt=""id="BLOGGER_PHOTO_ID_5367115615970191554" /></a><br />Bà Dấn mặc áo xanh, ngồi ngoài cùng bên trá<br /><br />Mỗi lần có việc phải đi qua đường Đội Cấn tôi thường dừng lại ở số nhà 40- nhà của chủ tịt nước- Trần Bất Lương, người đứng thứ 20 trong hàng ngũ độc tài thế giới, nhưng là người đứng số một trong bộ máy tham nhũng của Việt Nam, mà không khỏi chạnh lòng nhớ về bà Phạm Thị Dấn, người đàn bà có nợ tình nợ nghiã với gã đến mức, gã bỏ lại cả "một khối tình chung" cho bà nuôi, còn mình thì bỏ sang Liên Xô rồi mất hút con mẹ hàng lươn, dù đứa con không có bố giống thằng cha tệ bạc như đúc...<br /><br />Hơn 10 năm sau, thấy gã cứ thập thà thậm thụt ở tận cửa hang... trung ương trong hàng ngũ... nãnh đạo cao cấp, hôm nảo hôm nao cũng chường cái mặt bị thịt trên vô tuyến, bà mới tất tưởi bỏ rừng, bỏ núi, nơi ngút ngàn trùng xa để tìm chồng, cho dù với địa vị "chăn dân" như hiện tại, gã không thể nối lại nghĩa cũ tình xưa với bà, thì cũng có cuộc trùng phùng, đoàn tụ để con biết mặt cha, vợ hỏi han chồng... vậy mà một kết cục không thể nào khác được, bà đành đem nỗi oán hờn giận dỗi trút hết cho anh Lý Tử Trọng (1), rồi theo lời khuyên của đông đảo bà con dân oan khiếu kiện tại số 1 Mai Xuân Thưởng làm đơn tố cáo gã.<br /><br /> "Tôi đã dâng hiến cả cuộc đời con gái của mình cho ông Trần Đức Lương chủ tịch nước "<br /> Mở đầu bức thư bà viết<br /><br />Trước khi chuyển bức thư -nặng cả nghìn cân vào trong dư luận bạn đọc toàn cầu, tôi đã phải tức tốc phóng ngay đến vườn hoa Mai Xuân Thưởng để thậm thụt gặp bà, xem rõ sự tình đầu cua tai nheo như thế nào ? Cả hai phải chui vào góc sâu trong cùng của Đền Quán Thánh để trò chuyện mong tránh được tai mắt của bọn cớm. Gặp rồi, tôi chủ động hỏi:<br /><br />- Chị nói đi, có phải chị đã từng là vợ của Trần Đức Lương không ?<br />- Đức đức cái gì, tôi chỉ quen gọi là gã bất lương thôi<br />- Thế điều gì chứng minh chị đã từng là vợ xếnh xáng ?<br />- Thì tôi có ăn hỏi cuới xin đàng hoàng, hiện còn cả làng chứng kiến, còn giọt máu thừa của ông ta tôi nuôi hơn hai chục năm giống bố như tạc.<br />- Thế nghiã là vẫn còn nhân chứng, ở đây chị có giữ tấm ảnh nào của hai người không ?<br />- Đây thì không, còn ở nhà thì đầy, cả ảnh cưới, cả ảnh con Dung - con gái tôi, thậm chí lão ấy có nốt ruồi ở chỗ nào trên người tôi còn nhớ như in<br />- Quá trình chị đi gặp xếng xáng như thế nào ?<br />- Đầu tiên tôi đến đài truyền hình nơi ông ấy hay lên, ai cũng tưởng tôi điên ra sức xua đuổi tôi, tôi không đi, cứ ngồi ì trước cửa mấy ngày trời, cuối cùng họ bảo ông ấy đang đi công tác nước ngoài, cuối tháng mới về, tôi cứ về rồi họ sẽ báo cáo lại sau, nhất định ông ấy sẽ cho gặp. Tôi tưởng thật đi về Tuyên Quang chờ đúng 1 tháng không thấy gì mới quay lại đài truyền hình thì họ cứ như vô tuyến... tàng hình cả lượt. Những người hôm trước tôi gặp, hôm ấy không làm sao gặp lại được nữa, tôi phát chán phải bỏ đài tàng hình mà đi khắp nơi trên trung ương, từ văn phòng chính phủ đến bắc bộ phủ, nhà khách chính phủ v.v nơi nào cũng có người theo tôi từng bước để ngăn không cho tôi vào, hễ tôi có ý định giở giấy bút ghi chép nhắn nhe gì là họ tìm cách lấy bằng được, đói quá tôi phải tham gia vào đội quân bán bánh mì thuê rồi dạt ra đây theo bà con.<br />- Nghiã là chị vẫn không gặp được trần xếnh xáng<br />- Gặp trên ti vi thì tối nào chả gặp, còn ở ngoài đời thì lão ấy có đủ lý do để không tiếp một người dân thường lại tít tận tỉnh lẻ như tôi. Có khi lão ấy lại tưởng tôi chờ chồng đến hoá đá rồi ấy chứ. Bà tức tối bảo<br />- Giờ chị có ý định gì ?<br />- Chả có ý định gì cả, ngoài ý định tố cáo việc làm của gã cho toàn thế giới biết...<br /><br />Còn chưa kịp hẹn ngày trở lại đưa bà về Tuyên Quang tìm nhân chứng, lấy ảnh cưới phát lên trên mạng, thì cả bảo vệ lẫn sư cụ chủ trì đã ra hỏi han vớ vẩn, nhăng nhít, như thể được công an phái đến quấy rối vậy, tôi đành chuồn một mạch<br /><br />Từ ngày bài được Post lên mạng toàn cầu, Bà Dấn càng bị theo dõi gắt gao hơn, bà phải bỏ cả công việc quen thuộc là đi nhặt rác với bà con, đến việc đi tiểu tiện vệ sinh cũng phải có người đi kèm kẻo ra khỏi vườn hoa là sợ... bị cớm chìm, cớm nổi "hoá phép" làm bà biến mất trên mặt đất. Cả ngày bà chỉ ngong ngóng 2 bữa ăn, đi lại quanh quẩn trò chuyện với đám bà con dân oan nô nức đi khiếu kiện, lúc ngứa mồm, nứng lên bà lại cất giọng chửi cạnh khoé lũ bảo vệ vườn hoa, tài nói bậy của bà thì cả vườn hoa ai cũng biết.<br /><br />Có lần công an vườn hoa dỗ dành bà:<br />- Bà Dấn ơi, bà có biết ai tung lên mạng bài của bà không, bà nói thật đi kẻo không là mất nước đấy ?<br /><br />Bà nóng mắt:<br />- Mất mất cả mả mẹ nhà mày. Chúng nó ăn trên ngồi trốc còn chả tiếc, việc gì đến mày mà mày phải lo. Cái lũ lãnh tụ ăn hại ấy à, mất nước cũng đéo tiếc, có tiếc là tiếc mấy con bồ non chưa kịp đ... thôi, yêu nước cái đéo gì.<br /><br />Bà con muốn có nước thổi cơm, nhưng công an không cho qua cổng nhà tiếp dân lấy nước, bà cùng bà con kéo nhau ra khiêu chiến, giữa lúc căng thẳng nhất, bà vỗ bèn bẹt vào chỗ kín bảo:<br />- Cút đi, bọn kia, biết điều để cho dân tao lấy nước, nếu không, tao cho ăn cả tấn đặc sản bây giờ<br /><br />Thấy chúng còn lừng chừng, bà lấn tới:<br />- Mẹ chúng mày, để tao xem mấy cái mặt của chúng mày có đẹp bằng cái ấy của tao không ? Nào...<br /><br />Tránh voi chẳng xấu mặt nào, vừa thấy bà đặt tay lên háng, chúng đã chạy dạt như vịt để bà con kĩu kịt vào lấy nước rồi lẳng lặng khoá luôn cửa lại.<br /><br />Chiều chiều, vào lúc nhập nhoạng tối, người đi đường còn qua lại như mắc cửi, bà cứ thế trần truồng bên vòi phun con cóc, tắm táp thỏa thuê, mỗi lần cả nửa tiếng đồng hồ. Chị em từ già đến trẻ ai cũng sợ, bà bảo: Còn cái chó gì nữa mà mất, có cái qúy giá nhất thì đã hiến cho chủ tịch nước rồi, bây giờ vú tóp, đùi teo, còn cái chó gì mà phải sợ<br /><br />Ai đó kêu lên:<br />- Bà Dấn ơi, bà không sợ quốc tế chụp ảnh đưa lên mạng à ?<br /><br />Bà trả lời tỉnh khô:<br />- Nào ai muốn chụp ảnh cứ ra đây mà chụp, rồi đưa lên mạng Internet cho cả thế giới biết. Lãnh đạo Việt Nam chỉ lắm nhân tình, nhân ngãi, còn nhân quyền thì cướp trắng của dân rồi. Cứ để cả thế giới biết lãnh đạo phá nhà, cướp đất đến nỗi dân không còn tấc đất cắm dùi, phải ra vườn hoa, tắm dưới vòi "hoa sen" trong nhà tắm... thiên nhiên như thế này.<br /><br />Thời gian gần đây bà có ý định rủ người cùng về quê, để gặp lại cháu ngoại, gặp con gái, lấy ảnh, xin tiền v.v mà ai cũng bận mãi, cũng nghèo khổ cả nên chưa ai thực hiện được lời hứa với bà.<br /><br />Chịu đựng vạ vật mãi, khổ quá bà bảo:<br />- Biết thế này tôi hoá thành nàng Tô thị cho rồi. Như cái nhà anh Lý Tử Trọng đây này, chẳng biết trời, biết đất là gì, cứ trơ trơ như... tượng đá giữa trời trơ gan cùng tuế nguyệt...<br />- Ấy chớ, một vị nam giới - do dại dột chống tham nhũng mà bị hàm oan, cũng góp mặt trong đội quân khiếu kiện lên tiếng - Bà có hoá thành đá vọng phu thì cái Đảng cộng sản này nó cũng đập vụn bà ra để nung vôi rồi. Bà chưa biết tính chất của Đảng ta thôi. Gi gỉ gì gi cái gì cũng phá: Nó vô thần mà, chùa chiền, miếu mạo đền thờ đập hết...<br />- Này, bao giờ cho đến ngày xưa hở ông, ngày mà bác Hồ còn sống ấy ? Bà vui miệng hỏi<br />- Trời ơi, bác chúng ta thờ chủ nghĩa tam vô bà không biết à ? Nghiã là không tổ quốc, không vợ con, không quê quán, chỉ có quốc tế cộng sản thôi<br />- Trời đất- bà bần thần thốt lên: Thế thì làm sao yêu nước, thương dân được ? Không gia đình, không gốc gác, sao yêu vợ quý con, yêu bà con hai họ, yêu láng giềng quen thân ? Yêu quê hương, đất nước... chả lẽ bác chúng ta chỉ biết yêu mỗi quốc tế cộng sản vì có mấy ông râu xồm thôi ư ?<br />- Chính vì thế mà nước ta giờ mới khốn khổ thế này. Đảng theo bác bán đất, buôn dân, Đảng bé buôn bé, đảng to buôn to. Cho nên bà con mới mất nhà mất đất lên đây kêu kiện cả loạt, không cẩn thận mất luôn cả nước vào tay tàu khựa ấy bà ơi...<br /><br />Chuyện gần, chuyện xa, chuyện nhà, chuyện nước, cuối cùng lại quay lại chuyện đời con gái của bà, giữa chạ người héo hon ủ dột, bà bần thần thốt lên:<br />- Ông ơi! Sao cái gã Trần Bất Lương ấy nó không chịu gặp tôi lấy một lần...<br />- Thì người ta là chủ tịch nước mà, có phải anh kỹ sư địa chất suốt ngày luồn rừng, leo núi, lội suối, trèo non đi đào quặng cho tổ quốc như ngày xưa đâu ?<br />- Thì chủ tịch nước cũng là con người chứ, chả nhẽ ông không thấy người ta nói: "Một ngày nên nghiã, chuyến đò nên quen", huống hồ tôi với gã đã có với nhau một mụn con. Vì gã tôi tàn tạ trong héo mòn chờ đợi, nếu biết thế này thà tôi đi bước nữa, hoặc liều tuổi xuân buôn nguyệt bán hoa cho sướng cái thân tôi, chứ sao phải chịu ép mình như vậy hở ông ?<br />- Xì... Hình như đã chán giải thích, ông dân oan bảo: - Tôi nghĩ gã bất lương nhà chị cũng cùng lò chủ nghĩa Mác lê với chủ tịch Hồ Chí Minh mà ra thôi. Bố nào thì con nấy... Ngày xưa Hồ Chí Minh cũng có vợ ở bên Tàu, cũng cưới xin đàng hoàng, bao nhiêu người chứng kiến mà khi thành chủ tịch nước, thành cha già dân tộc rồi, bà Tăng Tuyết Minh có gặp nổi chồng đâu? Đảng đã bắt làm cha thì tồi tệ hơn cả đế quốc ấy chứ. Đế quốc Anh khi bắt ông Hồ còn mở phiên toà công khai, còn có người bào chữa... Tuy không được gặp chồng nhưng bà Tăng vẫn được nhìn mặt chồng từ xa, còn biết chồng mình ốm hay khỏe, gầy hay béo, đang làm công việc gì ? Còn Đảng đã bắt thành cha thì... một Tăng Tuyết Minh chứ mười Tăng Tuyết Minh cũng chẳng làm được gì ngoài nỗi ngậm ngùi hờn tủi nơi chín suối.<br />- Ô, ông ơi, thì ra cái bà Tăng Tuyết Minh có thật hả ông ?<br />- Sao lại không, thật như chuyện của bà với lão xếng xáng bây giờ đây này<br />- Nhưng gã ta có phải làm cha cả nước đâu ?<br />- Thì người ta vợ đẹp con khôn, lắm tình nhân, nhiều em ún chứ sao...<br /><br />Sáng 29 tết, trong lúc bà Dấn vừa ký giấy nhận xong khoản tiền tết do bà con Hải ngoại viện trợ, chắc mẩm mười mươi sẽ ăn tết tại vườn hoa, đón xuân cùng anh Lý Tử Trọng thì 2 chiếc ô tô với 23 người xô tới, trong số 23 gương mặt đặc biệt cao cấp của tỉnh nhà Tuyên Quang, từ chủ tịt tới phó chủ tịt, công an tỉnh, công an huyện nơi bà trú thân, còn 2 gương mặt quen thuộc là cô con gái Trần thị Dung và anh con rể Ma văn Dũng của bà, cả 2 cùng 21 người trên xe ào xuống để co kéo mẹ về... ăn tết theo lệnh của ngài thủ tướng Phan Văn Khải. Trong lúc bà con dân oan khiếu kiện đang còn bàng hoàng ngơ ngác trước sự xuất hiện của cô con gái, giống Trần Đức Lương như tạc với tiếng gọi thất thần: "mẹ ơi" thì hàng trăm công an rồ xe ô tô lao đến vây kín vườn hoa, cứ người của tỉnh nào thì tỉnh ấy bắt, không phải "2 bắt 1 chả chột cũng què" mà 23 người bắt một... cho nên mấy chục con người từ khắp các tỉnh thành không một ai thoát thân. Nhà sư Thích Đàm Thoa -chân chạy của cả nhóm - vì là người duy nhất có xe máy, còn bị rinh cả xe lẫn hòm nghề: Chày Kình, tang mít, sách kinh, cà sa v.v...<br /><br />Quang cảnh hơn loạn làng vì bị tây đốt nhà, bắt người thời xưa. Trong cảnh loạn lạc ấy, không ai biết Bà Dấn đi đâu... 8 giờ sáng hôm sau, một số trốn ra khỏi nhà khách của Uỷ ban nhân dân tỉnh lại thất thểu trở lại vườn hoa, nhưng không thấy bà Dấn đâu. Câu đầu tiên bà con thăm hỏi nhau là câu cửa miệng dành cho bà vợ hờ của chủ tịch nước:<br /><br />- Bà Dấn đâu rồi nhỉ:<br />- Thôi thế là bị chúng úp rồi, phen này có chạy đằng giời.<br />- Ôi giời! Sao cái đứa con gái nhà bà ấy giống lão Lương đến thế, đúng là cha nào con nấy<br />- Ừ, thoạt nhìn đã biết ngay, cấm có lẫn đi đâu được, mỗi tội trông má cứ như sâu ấy<br />- Giời ạ cái mặt phèn phẹt như bánh đúc, đen thủi đen thui như lão bố lại bảo là má như sâu<br />- Ô hay! má như sâu là... xấu như ma đấy còn gì nữa, thật là...<br />- Ừ nhỉ, nó mà giống bà ấy một tí có phải đỡ hơn không...<br /><br />Cho đến giờ phút này bà con đã tụ tập đông đủ bên chân anh Lý Tử Trọng, ngoài số người cũ từ khắp các tỉnh thành thuộc ba miền nam, bắc, trung, với thâm niên đi kiện cả chục năm trời, còn thêm cả lực lượng hùng hậu là đoàn của Tây Sông Vân Ninh Bình hơn bốn chục người nữa. Sáng sáng đến nhà các lãnh đạo gửi lời "chào buổi sáng"... Ai ai cũng nhớ cái dáng gầy guộc của bà. Ngoài 45 tuổi tóc đã hoa râm, tiều tuỵ như bà lão 60, nhưng đối đáp thì không ai bằng, đặc biệt là những bài thơ bà lượm được tại vườn hoa do những nhà dân chủ biết chuyện tình của bà với ông chủ tịt cố tình thả vào, đều được bà đọc cho cả nhóm nghe. Hỏi bà thích bài nào nhất, bà khoe thích nhất bài "cẩn thận cu đen". Bởi thích mà đọc đi đọc lại nhiều lần khiến dân oan ai cũng thuộc làu làu như cháo chảy:<br /><br /> Nói dối, ăn gian đã thành thần<br /> Sự đời nghĩ lại thấy mà kinh<br /> Thối inh tên tuổi vua chột mắt<br /> Tanh ngắt hơi đồng gã bất nhân<br /> Tuần Châu - đất ấy Lương đã xí (2)<br /> Sân golf- Đồng Mô - cũng có phần (3)<br /> Còn thêm tiền tỉ ; đô la sẵn<br /> Khách sạn năm sao trải đủ miền<br /> Làm vua một nước mà ăn chặn<br /> Che mắt sao được khắp bàn dân ?<br /> Bất lương khi sống thì khi chết<br /> Cẩn thận - cu đen -kẻo sập mồ (4)<br /><br />Bây giờ bà ở đâu ? ở đâu ? hả bà Phạm thị Dấn ơi ? Có bao giờ còn được về với bà con dân oan cả nước không ? Tất cả người dân ở đây đều nhớ bà lắm đấy, nhớ nhất là những đêm bị công an giả danh đầu gấu đến quấy phá, xô đi đẩy lại, giằng co đến rách toạc cả quần áo, có người vừa xấu hổ, vừa tức giận ngồi ôm mặt khóc, chỉ riêng bà bình thản đứng dạy, cởi phăng cái quần rách, rồi cứ với cái quần lót, áo cánh trên người, kéo tay bà con:<br /><br />- Đi, đi đến nhà chúng nó, đào mả cha đảng của chúng nó lên, hành dân đến thế này là cùng... Đi, xem chúng nó còn dám mở miệng nói vì dân, cho dân nữa không ?<br /><br />Bây giờ thì bà ở đâu ? ở đâu hả Bà Dấn ơi. Công an giam giữ bà có tử tế không ? Hay sợ điều tiếng thị phi, họ tìm cách cắt cơm, xoá tên bà rồi? Còn cả đưá con gái ngu dốt bạc nhược của bà nữa, sợ chồng như sợ cọp, để chồng đối xử với mẹ vợ thế nào cũng chịu... Cũng chỉ vì tội đã chứng kiến tận mắt những việc làm đồi bại phản dân hại nước của hắn đem đi tố cáo mà bà bị đuổi khỏi nhà không thương tiếc, phải lang thang tìm về Hà Nội bán bánh mì rồi dạt ra đây, bây giờ bà ở đâu ? Gần 20 ngày rồi công an vẫn chưa thả bà ra ư ? Bà đang nói tiếng trời hay đã nói tiếng đất rồi bà Dấn ơi ? Có thế nào cũng để tôi khóc (hay cười) với bà một tiếng chứ.<br /><br />Vườn hoa Mai Xuân Thưởng sáng 15-2-2006<br /><br />Thay mặt nhóm phóng viên VNN tại Hà Nội<br />Nguyễn Thái Bình<br />1. Biệt hiệu Trần Đức Lương do thủ tướng Phạm Văn Đồng đặt khi còn ở gia đình Lương - cơ sở nuôi giấu cán bộ<br />2. 2000 m2 đất ở Tuần Châu Hạ Long- Quảng Ninh- nơi du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Mỗi mét có giá cả chục cây vàng<br />3. 6 hecta đất ở Đồng Mô- Hà Tây - nơi có núi Ngọc vua Bà- một trong những địa điểm phát triển du lịch có tiếng ở Việt Nam<br />4. Ca dao:<br />Thương dân dân lập miếu thờ<br />Hại dân, dân đái sập mồ, nát xương...Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-35945959541388944802009-08-06T23:40:00.000-07:002009-08-07T00:05:36.669-07:00No38:Trần Đức Lương Lãnh $260 / một tháng ...... nhưng tài sản khổng lồÔng Đặng Quốc Bảo, một "lão thành cách mạng," đã chất vấn ông chủ tịch nước Việt Nam Trần Đức Lương, về các điểm sau đây:<br /><br />1. Sở hữu 5 khách sạn năm sao nằm dọc từ Bắc tới Nam.<br />2. Sở hữu 6 ha đất ở khu du lịch Đồng Mô, Hà Tây.<br />3. Sở hữu 2000 m2 đất ở khu du lịch Tuần Châu, Quảng Ninh.<br />4. Sở hữu hàng triệu USD đang gửi ngân hàng nước ngoài.<br />5. Sửa nhà hết 3 tỉ đồng.<br /><br />Sau khi nghe chất vấn, ông Lương đã cười và nói: "Đảng ta khuyến khích đảng viên làm kinh tế, tôi cũng muốn trước khi về hưu, kiếm lấy một chút làm vốn cho vợ con sau này" (2) Đánh giá mức độ tham nhũng ở Việt Nam để có một con số cụ thể là một điều khó. Dưới chế độ cộng sản, tin tức được giữ kín, nhiều thông tin không được phép loan báo và nếu tiết lộ có khả năng bị truy tố, cầm tù. Vì vậy, tin ông Ủy viên trung ương này sở hữu cả tỷ mỹ kim, ông Thủ tướng kia tham nhũng gửi vài trăm triệu ra nước ngoài đều dựa trên yếu tố ước lượng có cơ sở.<br /><br /> Đơn Tố Cáo Trần Đức Lương của Một Người Dân Trong Nước "Tôi đã dâng hiến cuộc đời tôi, tuổi thanh xuân cho ông Trần Đức Lương, được một mụn con gái trong lúc ông đang công tác ở gần đơn vị thanh niên xung phong chúng tôi đóng quân. Sau đó ông chuyển đi đâu không biết. Tôi đã phải nuôi con một mình, ròng rã đến nay tôi mới biết rõ tung tích" 16.11.2005Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-12514970311731541202009-08-06T23:39:00.000-07:002009-08-06T23:40:55.350-07:00No37: Thư phê bình và kiến nghị Gửi H/n lần thứ 14 BCHTW Đảng khoá IXTP Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2006<br /><br />Kính gửi :<br />- Tổng Bí thư và Bộ Chính trị<br />- Uỷ ban kiểm tra Trung ương.<br />- Ban chấp hành Trung ương khoá 9.<br /><br />Đồng kính gửi :<br />- Bí thư Thành phố và Đoàn đại biểu dự đại hội 10 của 64 tỉnh thành cả nước.<br />- Các đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp<br />- Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh<br />- Các đồng chí lão thành cách mạng<br />- Các Tướng lĩnh trong quân đội ở các quân khu<br />và Hội Cựu chiến binh 64 tỉnh thành cả nước.<br /><br />Tôi Nguyễn Văn Thi (Năm Thi), sinh năm 1920, vào Đảng năm 1940, nguyên Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Uỷ viên Tỉnh uỷ, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một (Nay là tỉnh Bình Dương - Bình Phước).<br /><br />Từ năm 1942 đến 1946:<br />- Chi đội trưởng Chi đội 1 Liên trung đoàn 301 - 310.<br />- Tư lệnh và Thường vụ đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1950.<br />- Bí thư Đảng bộ nhà tù Côn Đảo 1953 (thời chống Pháp).<br />- Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Chỉ huy miền thời chống Mỹ.<br />- Nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh.<br /><br />Căn cứ Mục 3 Điều 3 Điều lệ Đảng hiện hành, tôi có thư phê bình và kiến nghị này gửi đến Hội nghị Trung ương 14 nội dung như sau :<br /><br />I. Phê bình:<br /><br />Tôi là một Đảng viên lão thành cách mạng vào Đảng và hoạt động từ trước 1945 đã được nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng cách đây 6 năm. Còn các đồng chí từ Tổng Bí thư đến các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 đều nhỏ hơn tôi hàng chục tuổi đời, nhưng các thư từ ý kiến của người cao tuổi đời, tuổi Đảng như tôi cũng như một số đồng chí khác chưa lần nào được các đồng chí trả lời theo quy định của Điều lệ Đảng. Từ lá thư đầu 1986 gửi Trung ương khoá 6 đến nay là khoá 9 tôi đã gửi tất cả 6 thư mà không một nội dung nào được xem xét giải quyết và trả lời. Nay bằng thư này tôi xin trực tiếp phê bình đồng chí Tổng Bí thư và các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Trung ương 9 đã hành xử không dân chủ đối với tôi và nhiều đồng chí khác từng gửi thư đến Trung ương Đảng đều không được giải quyết trả lời, chứng tỏ ngay các đồng chí ở Trung ương Đảng đã vi phạm điều lệ Đảng đã ban hành. Nếu phê bình này các đồng chí Trung ương Đảng không tiếp thu sửa chữa, thì chính các đồng chí đã làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình mất tác dụng, không gương mẫu cho Đảng viên trong toàn Đảng noi theo.<br /><br />II. Kiến nghị:<br /><br />Sau 20 năm đổi mới, Ban chấp hành Trung ương 9 chỉ mới tổng kết đánh giá về các mặt kinh tế - chính trị - xã hội mà chưa đánh giá đầy đủ kết quả đổi mới về con người tức là đổi mới về nhân sự của hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước. Vì thế đồng thời với thành tựu kinh tế vấn tiếp tục xẩy ra nhiều bức xúc về quản lý kinh tế và xã hội trong đời sống người dân và nhiều bức xúc về chính trị về Nhà nước trong đông đảo Đảng viên. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến thực trạng khiếu kiện ngày càng nhiều trong dân và chất vấn kiến nghị ngày càng nhiều trong Đảng đối với Trung ương. Hội nghị Trung ương 14 thực sự tiếp tục con đường đổi mới cần phải mạnh bạo tự mổ xẻ ngay trong nội bộ từ Bộ Chính trị đến Ban chấp hành, từ Tổng Bí thư đến từng Uỷ viên Trung ương để cương quyết loại bỏ những uỷ viên đã sai phạm dù trực tiếp hay gián tiếp ở cương vị người đứng đầu các lĩnh vực, các địa phương, từ các bộ, ngành đến các tỉnh thành ra khỏi cương vị lãnh đạo, không được tái đề cử vào khoá 10. Hội nghị Trung ương 14 làm được như vậy mới thực hiện được ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam là muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa.<br /><br />Xuất phát từ đó Hội nghị Trung ương 14 là hội nghị cuối cùng giải quyết về nhân sự chuẩn bị cho Đại hội 10, tôi xin kiến nghị cụ thể các vấn đề sau:<br /><br />1. Nếu nhiệm kỳ 9 Ban chấp hành Trung ương không giải quyết dứt điểm các vụ án chính trị siêu nghiêm trọng đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và ba chúng tôi là Phạm Văn Xô - Đồng Văn Cống - Nguyễn Văn Thi và nhiều Đảng viên lão thành cách mạng trong Đảng, trong quân đội đã có thư gửi đến Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 9 từ các Hội nghị Trung ương lần thứ 10, 11, 12, 13 càng chứng tỏ các đồng chí chưa làm tròn nhiệm vụ của người Đảng viên đã quy định tại Điều lệ hiện hành. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về người đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư đến Bộ Chính trị mà tôi và nhiều Đảng viên trong cả nước cho rằng Trung ương Đảng khoá 9 đã tiếp tục duy trì ảnh hưởng của hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì nể nang hoặc cố tình để bảo vệ chức danh của mình nhờ hai ông này mà có được. Không đưa ra giải quyết các vụ án này là che dấu khuyết điểm của Trung ương 9 đã tiếp tục kéo dài từ khoá 4 đến nay để bảo vệ quyền lợi cá nhân của một số người đã được tạo ra, bất chấp uy tín của toàn Đảng và tiếp tục không muốn đổi mới để cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước bằng thay đổi nhân sự lãnh đạo Tỉung ương Đảng thật sự là những người trong sạch, có đức, có tài, có uy tín trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Hậu quả sẽ là Đảng viên chân chính cả nước sẽ tiếp tục đấu tranh để chỉ rõ trách nhiệm thuộc về Ban chấp hành khoá 9 mà người đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư. Tôi kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 cần làm rõ trách nhiệm giải quyết các vụ án này của Ban chấp hành Trung ương 9 trước khi bàn đến nhân sự khoá 10. Có như vậy mới thấy rõ trong Ban chấp hành khoá 9 ai là người có đủ tư cách vào khoá 10 từ đồng chí Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương?<br /><br />2. Để có được sự đổi mới về nhân sự cho khoá 10, tôi kiến nghị từ Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 phải có bản tự kiểm điểm theo 3 nội dung sau đây, trước khi Ban chấp hành Trung ương 9 có bản kiểm điểm cả nhiệm kỳ.<br /><br />2.1. Về tài sản cá nhân và gia đình của từng Ủy viên Bộ Chính trị đến Ủy viên Ban chấp hành Trung ương phải tự kê khai theo đúng quy định tại Nghị định 64 và Điều 11 Nghị định 13 sửa đổi bổ sung của Chính phủ đã ban hành theo Pháp lệnh chống tham nhũng. Trong đó có quy định bản tự kê khai phải công khai trong toàn Đảng để Đảng viên giám sát phát hiện. Có như vậy mới làm sáng tỏ ý kiến của Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng-Nguyễn Văn Chi đã trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 07/6/2005 về các trường hợp đem tiền gửi ở ngân hàng nước ngoài hoặc đầu tư cho vợ con kinh doanh bất động sản, mua cổ phiếu lớn, tiêu xài hoang phí, đi du lịch, cho con du học Mỹ v.v... trong Ban chấp hành Trung ương có những ai? (Xem bài “Chống những nguy cơ bên trong đối với một Đảng cộng sản cầm quyền” của giáo sư Đặng Xuân Kỳ, trên tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận số 12/2005). Qua tự kê khai tài sản sẽ làm sáng tỏ trường hợp “năm nhà ba vợ vẫn là Trung ương” là ai trong Bộ Chính trị khoá 9? Hội nghị Trung ương 14 cần coi tự kê khai tài sản là tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức lối sống để lựa chọn nhân sự cho Đại hội 10.<br /><br />2.2. Trong nhiệm kỳ 9 cả nước từ các bộ ngành thuộc Chính phủ đến các tỉnh thành ở đâu, cấp nào cũng đều có Ủy viên Bộ Chính trị hoặc Ủy viên Ban chấp hành Trung ương đứng đầu Đảng chính quyền nhưng hầu như ở đâu cũng để xẩy ra nhiều vụ tiêu cực tham nhũng làm thất thoát công quỹ mà lại do nhân dân tố giác, báo chí phanh phui. Có vụ đã xử thành án như vụ Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh... có vụ đang tạm giam để điều tra như vụ ở Bộ Thương mại, Bộ Giao thông vận tải... có vụ chờ thanh tra điều tra như vụ các công trình SEAGAME 22, vụ Phú Mỹ Hưng ở Thành phố Hồ Chí Minh... Tất cả chưa vụ nào xử lý trách nhiệm người đứng đầu là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương đã lãnh đạo nơi để xẩy ra vụ việc đó. Vì thế năm sau số vụ việc tai tiếng nhiều hơn năm trước, tham nhũng lãng phí từ tệ nạn trở thành quốc nạn. Chống tham nhũng lãng phí bằng Pháp lệnh không hiệu quả rồi chống bằng Bộ luật sắp ban hành nhưng vẫn không vạch mặt chỉ tên được người đứng đầu chịu trách nhiệm là ai? Vì thế dù luật đã thông qua nhưng vẫn là Ban chỉ đạo như Pháp lệnh, không có một tổ chức quốc gia chống tham nhũng, vẫn cứ do Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban để “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Không giám noi theo các nước trong khu vực khi họ đã có hẳn một cơ quan chống tham nhũng cấp quốc gia rất có hiệu quả. Tất cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 cần kiểm điểm trách nhiệm lãnh đạo Đảng đã để các đơn vị thuộc phạm vi mình quản lý có vụ việc xẩy ra dù đã hoặc chưa bị xử lý cũng phải tự rút hoặc Hội nghị Trung ương 14 phải loại ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành khoá 10.<br /><br />2.3. Từ sau Hội nghị Trung ương 11 dư luận công khai vạch ra thực trạng bè cánh ngay trong Bộ Chính trị gọi là bè lũ 6 tên hoặc 8 tên. Có đảng viên hưu trí tại Thành phố Hồ Chí Minh gửi thư chất vấn và kiến nghị đến Hội nghị Trung ương 12 đã chỉ rõ đó là 6 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị gồm các đồng chí: Trần Đức Lương, Trần Đình Hoan, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Hồng Anh, Phan Diễn. Vì thế mà thế lực của bè cánh này đã thách thức dư luận qua hai sự việc họ đã làm là:<br /><br />a) Tung ra Bản báo cáo tại Hội nghị Đảng uỷ quân sự Trung ương mở rộng ngày 24/8/2004 để gọi những đảng viên lão thành đòi giải quyết các vụ án chính trị siêu nghiêm trọng và vụ Đảng tịch Lê Đức Anh là phần tử cấp tiếp, đòi khai trừ Đảng cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh.<br /><br />b) Cuối năm 2005, họ lại cho xuất bản và phát hành cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” để Đỗ Mười viết lời tựa ca tụng Lê Đức Anh là “Nhà chính trị tầm cỡ - nhà quân sự lớn” nhằm tạo thanh thế cho bè cánh đang tại chức lọt vào Ban chấp hành khoá 10 theo mưu đồ của Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Hội nghị Trung ương 14 cần làm rõ cái gọi là bè lũ 6 tên hay 8 tên đó là những ai? Ai là người chịu trách nhiệm trong Bộ Quốc phòng đưa ra Bản báo cáo nói trên? Ai là người duyệt và cho xuất bản cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”? Tất cả những người đó Hội nghị Trung ương 14 phải loại họ ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành khoá 10.<br /><br />Nếu không xuất phát từ 3 nội dung tự kiểm điểm nói trên Hội nghị Trung ương 14 không đủ cơ sở pháp lý và tính Đảng để lựa chọn những con người trong sạch về lối sống, đủ đức, đủ tài, đủ tín nhiệm vào khoá 10 cho dù người đó ở độ tuổi nào. Đồng thời Hội nghị Trung ương 14 còn phải đưa ra nội dung các thư chất vấn và kiến nghị, các phát biểu của các Đảng viên lão thành đến các Đảng viên hưu trí, Cựu chiến binh cả nước đã gửi, đã nêu đích danh một số Ủy viên Bộ Chính trị và cả những người được bầu đi dự đại hội 10 để Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xem xét có đủ tư cách dự đại hội 10 chứ chưa nói là đề cử vào khoá 10. Nhiều phát biểu về những con người mà dư luận đánh giá là “hổ phụ không sinh hổ tử” lại sinh ra “cẩu tử” hoặc có người được coi là “nhân vật số 1” trong Bộ Chính trị hiện nay; trước kỳ Đại hội Đảng các tỉnh thành, các bộ ngành người này đã đưa ra báo giá cho mỗi chức danh đứng đầu ít nhất là 30 tỷ đồng. Đó là đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hiện là Ủy viên Bộ Chính trị - Trưởng ban Tư tưởng văn hoá Trung ương sinh ra từ người cha là nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Khoa Văn tức Nguyễn Hải Triều và đồng chí Nguyễn Chí Vịnh được bầu là đại biểu dự Đại hội 10 sinh ra từ người cha là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người liên quan đến các vụ án siêu nghiêm trọng Sáu Sứ, T4 nhưng vẫn được phe cánh bao che phong hàm Trung tướng để mưu đồ lọt vào Trung ương Đảng khoá 10. Đó là đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị - Trưởng ban tổ chức Trung ương Trần Đình Hoan với quá nhiều tai tiếng từ trước Đại hội 9 về quyền thế bè cánh, trước đại hội Đảng các địa phương các ngành về giá cả từng chức danh đến quan hệ nam nữ mập mờ ở Quảng Ninh mà cán bộ hưu trí nào ở đó cũng biết rõ.<br /><br />Vấn đề nhân sự không chỉ là sự bàn bạc đi đến nhất trí bằng bỏ phiếu mà phải thẳng thắn đánh giá từng con người, từng cương vị trong nhiệm kỳ 9 tại Hội nghị Trung ương 14, là trách nhiệm lịch sử của Ban chấp hành Trung ương 9 phải kiên quyết loại bỏ những Ủy viên Trung ương khoá 9 là bè phái, là người nhiều tai tiếng không để một ai lọt vào khoá 10.<br /><br />Hội nghị Trung ương 14 phải sàng lọc cho được những người đề cử vào khoá 10 để Ban chấp hành khoá 10 thực sự là bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đủ năng lực đổi mới bằng cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước tiến kịp với cải cách và phát triển kinh tế. Bộ máy Đảng cộng sản Việt Nam khoá 10 phải thực sự cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước để chịu trách nhiệm toàn diện, lãnh đạo toàn diện, không tiếp tục thực trạng vừa là Đảng vừa là Nhà nước; càng không thể Đảng trong Đảng, Nhà nước trong Nhà nước. Tất cả phải rạch ròi về mặt Đảng lãnh đạo giữa 3 cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp mới thực sự là một đảng cầm quyền không còn là độc quyền như hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam muốn đảm bảo chế độ chính trị có một đảng thì bộ máy lãnh đạo của Đảng phải xây dựng các đoàn thể quần chúng trở thành người đại diện thật sự và có thẩm quyền của các tầng lớp nhân dân, chứ không thể tồn tại như hiện nay họ chỉ biết đồng tình cho dù trong lòng con bất bình và biến họ thành những cánh tay nối dài của Đảng. Đó mới thực sự là Đảng của toàn dân, được dân tín nhiệm, một lòng theo Đảng theo Bác Hồ như lúc Bác còn sống.<br /><br />3. Để tiếp tục đổi mới về nhân sự, Hội nghị Trung ương 14 cần bãi bỏ các thông lệ đã tồn tại nhiều kỳ qua khiến Đảng ngày càng trở thành độc quyền không dân chủ. Kiến nghị bãi bỏ 4 nội dung sau :<br /><br />a) Bãi bỏ việc chia các chức danh Tổng Bí thư - Chủ tịch Quốc hội - Chủ tịch nước - Thủ tướng Chính phủ cho đủ mặt của 3 miền Bắc - Trung - Nam.<br /><br />b) Bãi bỏ việc Ban chấp hành Trung ương bầu Tổng bí thư, bầu Bộ Chính trị, bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra và bầu Uỷ ban Kiểm tra. Tất cả các chức danh này phải do Đại hội 10 bầu trực tiếp, Hội nghị Trung ương 14 có trách nhiệm đề cử mỗi chức danh Tổng Bí thư và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra là 3 người để Đại hội lựa chọn.<br /><br />c) Bãi bỏ trình tự đã có lâu nay là sau Đại hội Đảng lựa chọn được các chức danh nói trên mới tổ chức bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Bãi bỏ trình tự này để chấm dứt dư luận trong dân mỉa mai là: “Đảng cử dân bầu”. Muốn vậy Đại hội 10 phải sửa đổi Điều lệ Đảng để Ban chấp hành khoá 10 phải chỉ đạo bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trước khi chuẩn bị Đại hội 11. Có như vậy để thông qua kết quả bầu cử người dân trực tiếp lựa chọn được người đại diện cho mình vào các cơ quan lập pháp thì trong Đảng mới lựa chọn được người có uy tín vào cơ quan lãnh đạo của Đảng từ cơ sở đến Trung ương.<br /><br />d) Bãi bỏ không để một Ủy viên Bộ Chính trị hoặc Ủy viên Ban chấp hành Trung ương vừa được dân bầu vào cơ quan lập pháp là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, họ lại vừa nắm giữ các chức quyền ở cơ quan hành pháp và tư pháp như hiện nay.<br /><br />4) Kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 phải đề cử kỳ được ứng cử viên vào chức vụ là Tổng Bí thư và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra là người đủ hiền tài để đại diện cho nguyên khí quốc gia, có đủ năng lực và trình độ lái con tàu Đảng cộng sản Việt Nam đi tiếp con đường đổi mới để hội nhập quốc tế mà vẫn giứ được độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam thực sự là nước có xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chức vụ Tổng Bí thư phải là người đại diện tin cậy cho 2,7 triệu Đảng viên, cho 80 triệu dân và cho cả giai cấp công nhân Việt Nam, không thể để chức vụ này rơi vào bất cứ một Ủy viên Bộ Chính trị hay một Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 vượt quá tuổi quy định hay dù còn nhỏ một hai tuổi nhưng có quá nhiều tai tiếng đã có từ trước Đại hội 9 đến suốt nhiệm kỳ 9 nhất là trong phe cánh của ông Đỗ Mười - Lê Đức Anh đã làm dư luận trong Đảng bất bình như những người tôi đã nêu danh ở trên.<br /><br />5. Kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 sau khi lựa chọn được danh sách nhân sự đề cử vào Ban chấp hành Trung ương khoá 10 và hai chức danh Tổng Bí thư - Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cần phải đổi mới để công bố ra toàn Đảng cho mọi Đảng viên trong cả nước biết. Đồng thời cung cấp đường dây nóng cho mọi Đảng viên có quyền góp ý kiến để đại hội 10 rộng đường lựa chọn. Công khai như vậy mới chứng tỏ Đảng thực sự đổi mới, thực sự dân chủ hóa, chấm dứt bệnh cơ cấu và bệnh Đảng hoá về nhân sự.<br /><br />Hội nghị Trung ương 14 phải giải quyết được các kiến nghị nói trên mới thực sự đi tiếp con đường đổi mới, mới chấm dứt được những tồn tại đã kéo dài từ các nhiệm kỳ trước suốt 20 năm đổi mới. Trước hết phải cương quyết sửa đổi Điều lệ Đảng hiện hành để bãi bỏ những quy định cũ nói trên. Hội nghị Trung ương 14 phải đưa ra một danh sách nhân sự Ban chấp hành Khoá 10 để Đại hội 10 lựa chọn sao cho đạt được ý nguyện của 2,7 triệu Đảng viên cả nước là: Đại hội 10 là Đại hội xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là Đại hội có quyết sách đưa Luật chống tham nhũng và lãng phí đi vào cuộc sống để xã hội Việt Nam không bị nạn bè phái, quốc nạn tham nhũng lãng phí đẩy đến tận cùng thối nát làm cho chế độ đi đến sụp đổ như Lênin đã chỉ ra.<br /><br />Tôi xin gửi đến Hội nghị Trung ương 14 các kiến nghị trên và đồng gửi đến các đồng chí Bí thư các tỉnh thành và Đoàn đại biểu dự Đại hội 10 của 64 tỉnh thành cả nước, để thông qua các đồng chí xin gửi gắm tất cả các nội dung kiến nghị là ý nguyện tha thiết nhất của một Đảng viên lão thành đã 66 tuổi Đảng, 86 tuổi đời mong sao qua từng Đại biểu dự Đại hội 10 sáng suốt lựa chọn được một Ban chấp hành Trung ương Đảng thật sự trong sạch vững mạnh và một Tổng Bí thư là người cầm lái con tàu Đảng cộng sản Việt Nam phải là một hiền tài là nguyên khí quốc gia.<br /><br />Trân trọng kính chào và chúc Hội nghị Trung ương 14 thành công.<br /><br />Người viết: Đảng viên lão thành<br /><br />Nguyễn Văn Thi<br />ĐC : 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực<br />Đường 3/2 Quận 10 TP Hồ Chí Minh<br />ĐT : 08.8655878Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-38075846912885014482009-08-06T23:37:00.000-07:002009-08-06T23:39:03.783-07:00No36: VẤN ĐỀ ĐẢNG TỊCH CỦA LÊ ĐỨC ANHTrong vấn đề này, ngoài các thư từ của các lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội... có hai tài liệu còn lưu trữ: Một tài liệu tháng 11 - 1976, khi đồng chí Lê Đức Anh tham gia Đại hội 4 và được đề cử vào Ban chấp hành Trung ương. Lúc ấy đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân khu 9; một tài liệu nữa làm tháng 8 - 1986 trước Đại hội 6. Lúc đó đồng chí Lê Đức Anh là Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp bạn Camphuchia, Ủy viên Bộ Chính trị. Trước đó đồng chí Lê Đức Anh là Tư lệnh Quân khu 7.<br /><br />+ Tài liệu thứ nhất ghi:<br />- Thành phần gia đình: Trung nông; Bản thân: Viên chức<br />- Tham gia cách mạng: 1937<br />- Vào Đảng: 7 - 1945<br />- Chính thức: 8 - 1945<br /><br />“Bản thân học đến năm 1937, ra dạy tư ở Phú Vang, được kết nạp Đảng vào năm 1938, nhưng chưa sinh hoạt chi bộ. Giữa năm 1939, người anh rể (Hồ Văn Nguyên) bị bắt nên mất liên lạc. Cuối năm 1939 vào Hội An, năm 1940 vào Đà Lạt - Lộc Ninh. Tháng 11 năm 1944 tiếp mối liên lạc hoạt động trong công nhân cao su. Tháng 7 - 1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30 - 8 - 1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”.<br /><br />+ Tài liệu thứ hai làm tháng 4 - 1986 (bước vào Đại hội 6) ghi:<br />- Thành phần gia đình: Trung nông<br />- Bản thân: Công nhân<br />- Ngày và nơi tham gia cách mạng: 1937<br />- Ngày nhập ngũ: Tháng 8 - 1945<br />- Ngày vào Đảng: 30 - 5 - 1938<br />- Ngày chính thức: 05 - 10 - 1938<br /><br />+ Quá trình hoạt động cách mạng:<br /><br />“1937 : Tham gia phong trào Bình Dân ở Phú Vang, được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 5 năm 1938.<br /><br />Giữa năm 1939, địch khủng bố mất liên lạc, vào Hội An, Đà Lạt, Thủ Dầu Một làm ăn.<br /><br />4 - 1944: Được giao các nghiệp đoàn cao su ở Lộc Ninh, Quảng Lợi.<br /><br />8 - 1945: Chỉ huy quân đội vũ trang Thủ Dầu Một, làm trung đội trưởng, chính trị viên đại đội, chính trị tiểu đoàn, chính trị viên chi đội 1, sau là trung đoàn 301, trung đoàn ủy viên, Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một”.<br /><br />Vì vậy, ngày vào Đảng (30 - 5 - 1938), ngày chính thức (05 - 10 - 1938) ghi trong bản tóm tắt lý lịch năm 1986 của đồng chí Lê Đức Anh là một nghi vấn. Việc các đồng chí lão thành cách mạng, tướng lĩnh quân đội yêu cầu Đảng thẩm tra vấn đề Đảng tịch đồng chí Lê Đức Anh từ năm 1982, và từ năm 1986 (khi có bản tóm tắt lý lịch của đồng chí Lê Đức Anh lần thứ 2) là một yêu cầu xác đáng.<br /><br />Trong công tác Đảng viên thì vấn đề Đảng tịch bất cứ thời kỳ nào cũng là vấn đề quan trọng hàng đầu. Điều lệ Đảng quy định: Đảng viên chỉ được tính tuổi Đảng từ khi được kết nạp Đảng chính thức. Có nghĩa rằng chỉ có thể chính thức được công nhận là Đảng viên từ ngày được chi bộ chính thức kết nạp.<br /><br />Trong bản tóm tắt lý lịch lần thứ nhất (tháng 11 - 1976) của đồng chí Lê Đức Anh có ghi rõ: chưa sinh hoạt chi bộ. năm 1939 thì mất liên lạc. Cho dù được kết nạp dự bị năm 1938 thì cũng không thể kết nạp chính thức, vì chưa sinh hoạt chi bộ.<br /><br />Bản tóm tắt lý lịch: 11 - 1976 ghi là:<br /><br />“Tháng 11 - 1944 tiếp mối liên lạc hoạt động trong công nhân cao su”. Vậy, tiếp mối liên lạc hoạt động gì? Hoạt động Việt Minh Cứu Quốc hay hoạt động Đảng? Hoạt động Đảng là hoạt động với tư cách đảng viên chính thức hay đảng viên dự bị? Giả định đã tiếp mối liên lạc về Đảng thì sau đó hoặc là được kết nạp dự bị lại, hoặc là sau một thời gian thử thách được chính thức kết nạp vào Đảng. Trong tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 không nói điều này. Xin lưu ý là từ tháng 4 - 1944 đến tháng 7 - 1945 là 1 năm 3 tháng. Lúc đó đang là cao trào cách mạng tiền khởi nghĩa, có vùng Đảng đã hoạt động bán công khai.<br /><br />Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 còn ghi là:<br /><br />“Tháng 7 - 1945 được giao nhiệm vụ chuẩn bị khởi nghĩa. Lấy đó làm ngày kết nạp và lấy ngày 30 - 8 - 1945 là ngày làm Tỉnh ủy viên Thủ Dầu Một làm ngày chính thức”. “Lấy đó làm ngày kết nạp”...nghĩa là thế nào? “Lấy đó làm ngày chính thức”...nghĩa là thế nào? Nghĩa là lấy đó mà thôi, chứ không phải là đã được kết nạp, được làm lễ chính thức.<br /><br />Đồng chí Năm Thi trong bức thư gửi đồng chí Lê Đức Thọ yêu cầu xác minh lý lịch và các vấn đề về đồng chí Lê Đức Anh viết ngày 2 - 8 - 1986 có nói:<br /><br />“Đầu năm 1945, tôi (Năm Thi là Ủy viên Ban cán sự Thủ Dầu Một) được phân công đến Lộc Ninh để kiểm điểm khả năng tổ chức lực lượng Mặt trận Việt Minh... Tháng 2 - 1945 một tổ chức Mặt trận Việt Minh trong công nhân cao su... Ngày vào Đảng năm 1945 (của đồng chí Lê Đức Anh) do Đảng bộ Thủ Dầu Một có thể là đúng. Còn trước năm 1945, tôi (Năm Thi) chưa thấy rõ vì không có sự giới thiệu nào là một đồng chí đảng viên nằm vùng”.<br /><br />Nhiều đồng chí chí cho rằng: đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp hoặc chưa được kết nạp chính thức. cho nên mới dùng cái từ “lấy đó làm ngày kết nạp, lấy đó làm ngày chính thức”.<br /><br />Vì vậy, yêu cầu thẩm tra đảng tịch đồng chí Lê Đức Anh của nhiều đồng chí lão thành cách mạng là có lý do xác đáng.<br /><br />Cần lưu ý là:<br /><br />Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 ghi: Thành phần là “viên chức”. Viên chức là thuộc thành phần tiểu tư sản. Được kết nạp năm 1938, nhưng không có ngày.<br /><br />Điều lệ Đảng trước đây quy định: Thời gian dự bị của những người được kết nạp Đảng thành phần tiểu tư sản là 6 tháng. Còn xuất thân thành phần công nhân thời gian dự bị là 3 tháng.<br /><br />Cho nên khi khai ngày kết nạp (dự bị) là 30 - 5 - 1938 và ngày chính thức là 05 - 10 - 1938 (cách nhau 4 tháng 6 ngày thì tất nhiên kèm theo đó phải khai tụt xuống là xuất thân công nhân). Vì nếu xuất thân viên chức thì thời gian dự bị phải là 6 tháng. (Đó là chưa nói các nghi vấn khác như một số đồng chí đảng viên đã đặt vấn đề từ năm 1982).<br /><br />Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 ghi:<br /><br />“Tham gia Mặt trận Bình Dân, bị địch khủng bố mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng 4 - 1944, tiếp tục hoạt động”. Như vậy là chỉ nói tham gia Mặt trận Bình Dân, không nói rõ tham gia Đảng. Chỉ nói “mất liên lạc vào Nam Bộ làm ăn. Tháng 4 - 1944 tiếp tục hoạt động”. Như vậy là từ năm 1939 đến tháng 4 năm 1944 làm ăn, không hoạt động gì, thời gian đó là hơn 5 năm. 5 năm không phải là thời gian ngắn.<br /><br />Bản tóm tắt lý lịch tháng 11 - 1976 như vậy, thế thì làm sao lại tòi ra trong bản tóm tắt lý lịch lần 2: ngày vào Đảng là ngày 30 - 5 - 1938, ngày chính thức là ngày 05- 10 - 1938? Vì sao đến năm 1986 lại nhớ cụ thể ngày tháng kết nạp chính thức đến như vậy? Nếu được kết nạp chính thức rồi mà trong suốt 5 năm ấy, sao không tìm cách bắt liên lạc với Đảng? Khi vào Hội An, phong trào cách mạng ở Hội An, Duy Xuyên, Quảng Nam rất mạnh. Tổ chức Đảng và các tổ chức công khai như các hội ái hữu, các nghiệp đoàn đều hoạt động mạnh, ngay trong Sở đạc điền mà đồng chí Lê Đức Anh làm thư ký cũng có tổ chức quần chúng của Đảng.<br /><br />Nhiều đồng chí cán bộ, đảng viên nghi vấn đồng chí Lê Đức Anh chưa được kết nạp vào Đảng là có lý do.<br /><br />Vậy tại sao từ năm 1986, khi có bản tóm tắt lý lịch lần 2 của đồng chí Lê Đức Anh, và có lời ghi ở góc phải trên bức thư ngày 2 - 8 - 1986 đồng chí Năm Thi gửi đồng chí Lê Đức Thọ là: “Điều tra lý lịch ngày vào Đảng có phải là 44 hay 39?”. Ban Tổ chức Trung ương và Ban Bảo vệ chính trị nội bộ lại không tiến hành kiểm tra và xác minh?<br /><br />Đồng chí Nguyễn Đức Tâm cho biết:<br /><br />Đồng chí Nguyễn Đức Tâm có trực tiếp báo cáo với đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương khóa ấy về vấn đề lý lịch đồng chí Lê Đức Anh. Đồng chí Lê Đức Thọ đang nghiên cứu nhân sự Tổng Bí thư nên không có thời gian xem xét tiểu sử đồng chí Lê Đức Anh và chỉ gặp đồng chí Lê Đức Anh bảo đồng chí Lê Đức Anh viết báo cáo gửi lên Ban Tổ chức Trung ương và để sau Đại hội hãy hay.<br /><br />Thư đồng chí Lê Đức Anh gửi đồng chí Lê Đức Thọ, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương ngày 16 - 11 - 1986 chỉ đề cập 3 vấn đề mà theo đồng chí Lê Đức Anh là “do nhóm Trần Văn Trà, Tô Ký, Năm Thi, Huỳnh Văn Một, v.v... sẽ nói trong dịp Đại hội toàn quân vào cuối tháng 11 năm 1986:<br /><br /> 1. Làm cai cao su.<br /> 2. Tại sao tôi (Lê Đức Anh) lãnh đạo khởi nghĩa ở các vùng đồn điền cao su ở phía bắc Thủ Dầu Một mà không bắt và giết tên Giám đốc đồn điền cao su?<br /> 3. Tại sao tôi (Lê Đức Anh) không bắt được bọn quan chức cao cấp của Pháp bị bọn Nhật giam giữ ở Lộc Ninh, Thủ Dầu Một khi đã giành được chính quyền?” <br /><br />Trong bức thư gửi đồng chí Lê Đức Thọ ngày 16 - 11 - 1986 của đồng chí Lê Đức Anh, đồng chí Lê Đức Anh hoàn toàn không đề cập đến vấn đề đảng tịch.<br /><br />Đồng chí Nguyễn Đình Hương cho biết:<br /><br />“Trong thời gian chuẩn bị Đại hội 6 xẩy ra sự kiện anh Văn Tiến Dũng và anh Chu Huy Mân không trúng đại biểu đi dự Đại hội Đảng toàn quốc. Lúc đó cân nhắc ai làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, kết quả là Bộ Chính trị giới thiệu đồng chí Lê Đức Anh làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và khi xem xét không bàn gì về lịch sử chính trị đồng chí Lê Đức Anh”.<br /><br />Khóa 6, đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Đồng chí Nguyễn Đức Tâm báo cáo với đồng chí Nguyễn Văn Linh một số vấn đề về lịch sử chính trị đồng chí Lê Đức Anh, nhưng đồng chí Nguyễn Văn Linh không có ý kiến gì.<br /><br />Đến Đại hội 7, đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư. Đồng chí Nguyễn Đình Hương, Trưởng Ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương, báo cáo với đồng chí Đỗ Mười. Đồng chí Đỗ Mười thấy thư phản ánh có vấn đề phải nghiên cứu, nhưng lúc ấy đồng chí Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, bầu làm Chủ tịch nước nên đồng chí Đỗ Mười không có ý kiến gì.<br /><br />Đồng chí Nguyễn Đình Hương, Khi làm Phó Ban Tổ chức Trung ương kiêm Trưởng Ban Bảo vệ chính trị nội bộ được đồng chí Lê Đức Thọ và Nguyễn Đức Tâm giao nghiên cứu các thư phản ánh về lịch sử chính trị đồng chí Lê Đức Anh. Lúc đó đồng chí Lê Đức Anh đã được Trung ương và Bộ Chính trị cử làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng rồi Chủ tịch nước, cho nên cũng dừng lại.<br /><br />Đến khi Đài phát thanh đưa tin đồng chí Lê Đức Anh được nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng thì các lão thành cách mạng, cán bộ, đảng viên lại có thư yêu cầu xem xét đảng tịch đồng chí Lê Đức Anh.<br /><br />Sau Đại hội 9, qua các hành động vi phạm nguyên tắc, lộng quyền, vu khống của đồng chí Lê Đức Anh, cho đến nay, khi vụ T4 được phát hiện, thư phản ánh về tiểu sử đồng chí Lê Đức Anh lại rộ lên.<br /><br />Ban Tổ chức Trung ương, Ban Bảo vệ chính trị nội bộ từ cuối khóa 5, khóa 6, khóa 7, khóa 8 đều thấy đảng tịch của đồng chí Lê Đức Anh cần phải xem xét lại. Nhưng do nể nang, lấy lý do là đã được bầu vào chức vụ cao của Đảng và Nhà nước, nên bỏ qua, không xem xét. Không thể lấy thái độ hữu khuynh ấy để làm căn cứ mà không thẩm tra lại lý lịch đồng chí Lê Đức Anh.<br /><br />Đồng chí Lê Đức Anh tự khai vào Đảng ngày 30 tháng 5 năm 1938 và chính thức ngày 05 tháng 10 năm 1938 là khai manVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-42439854636570951522009-08-06T23:33:00.000-07:002009-08-06T23:37:25.310-07:00No35: BẢN BÁO CÁO TỐI MẬT CỦA UBKT TW VỀ LÊ ĐỨC ANHBAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG<br />ỦY BAN KIỂM TRA<br />*<br />Số: 751-/BCKTTW<br />TỐI MẬT<br /> <br /><br />ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM<br />Hà Nội, ngày 10 tháng 3 năm 2001<br /><br />BÁO CÁO<br />Về việc giải quyết thư phản ánh đối với đồng chí Lê Đức Anh, Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng<br /><br />Vừa qua, Ủy ban kiểm tra Trung ương đã nhận được nhiều đơn thư của cán bộ, đảng viên phản ánh có liên quan đến đồng chí cố vấn Lê Đức Anh, với nội dung tóm tắt như sau:<br /><br />1 - Thường xuyên dự sinh hoạt với Bộ Chính trị và dự kiểm điểm của Bộ Chính trị theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) vì sao đồng chí không đưa vấn đề Quyết định 234 và thành lập bộ phận A10 ra phê bình, góp ý kiến với đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, mà để đến nay, vào thời điểm sát Đại hội IX mới đưa ra, phải chăng là sự vận động chia rẽ bè phái trong Đảng.<br /><br />2 - Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11 đã cho Trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của mình, phát biểu trước Hội nghị Trung ương phê phán đồng chí Tổng Bí thư và đồng chí Chủ nhiệm Tổng cục chính trị.<br /><br />- Đồng chí đã gửi văn bản cho Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo và Cục trưởng Cục An ninh quân đội về ý kiến của Bộ Chính trị đối với quyết định 234 và chỉ thị phải thực hiện một số việc theo ý kiến riêng của mình.<br /><br />- Trong dip tết Nguyên đán Tân Tỵ (2001), khi vào miền Nam tiếp xúc các tướng lĩnh quân đội, đồng chí đã nói về Hội nghị của Bộ Chính trị và Hội nghị Trung ương lần 11 kiểm điểm đồng chí Lê Khả Phiêu, đồng chí Phạm Thanh Ngân vi phạm nguyên tắc Đảng; đồng chí Lê Khả Phiêu không xứng đáng làm Tổng Bí thư.<br /><br />3 - Đã thiếu tôn trọng vai trò, vị trí của Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương; thiếu tôn trọng tập thể, thiếu bình đẳng, thường áp đặt ý kiến riêng không khách quan, không công bằng; thậm chí sử dụng lực lượng tình báo theo ý kiến cá nhân.<br /><br />4 - Báo cáo thiếu trung thực một số vấn đề về lịch sử bản thân như: thành phần bản thân, ngày vào Đảng, về gia đình vợ cũ, về thực hiện một số nhiệm vụ được giao trước đây.<br /><br />Chấp hành ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị trong phiên họp ngày 05 - 3 - 2001 (Công văn số 583-CV/TW, ngày 09 - 3 - 2001) Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã nghiên cứu, xem xét các nội dung phản ánh nói trên. Xin báo cáo Bộ Chính trị như sau:<br /><br />1 - Về việc thư phản ánh nêu đồng chí Lê Đức Anh biết quyết định 234 sớm, nhưng để đến sát Đại hội IX mới phê phán đồng chí Lê Khả Phiêu: Theo báo cáo của đồng chí Vũ Chính, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục tình báo, khoảng tháng 6 năm 2000 đồng chí có báo cáo với đồng chí Cố vấn Lê Đức Anh về quyết định 234 và Kế hoạch A10 do đồng chí Lê Khả Phiêu ký là sai. Đến Hội nghị Bộ Chính trị bàn chuẩn bị nhân sự Đại hội IX (5 - 1 - 2001) việc này mới đưa ra Bộ Chính trị xem xét. Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều kiện để xem xét, kết luận về ý kiến phản ánh.<br /><br />2 - Về việc sau Hội nghị Trung ương 11 đồng chí Lê Đức Anh cử trợ lý đi thông báo ý kiến riêng của đồng chí: Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 11, đồng chí Lê Đức Anh đã cử đồng chí trợ lý Nguyễn Bắc Son đi gặp trực tiếp một số đồng chí lão thành cách mạng, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương, Ủy viên Trung ương và tướng lĩnh quân đội. Đồng chí Nguyễn Bắc Son đã đến gặp 19 đồng chí: Chu Huy Mân, Nguyễn Quyết, Tố Hữu, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Thanh Bình, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Minh Thảo, Phùng Thế Tài, Trần Văn Quang, Đặng Quân Thụy, Hoàng Anh, Nguyễn Chơn, Trần Lê, Nguyễn Hữu Khiếu, Nguyễn Quốc Thước, Nguyễn Trọng Xuyên, Lê Hai, Phạm Văn Long, Nguyễn Thị Bình. Nội dung cuộc gặp là truyền đạt ý kiến của Cố vấn Lê Đức Anh thông báo một số vấn đề có liên quan đến Bộ Chính trị bàn về nhân sự Đại hội IX; đọc nguyên văn quyết định số 234, Kế hoạch A10 và bài phát biểu của đồng chí Lê Đức Anh tại Hội nghị Trung ương 11. Việc làm trên là vi phạm nguyên tắc.<br /><br />- Tại Hội nghị ngày 5 - 1 - 2001, Bộ Chính trị thảo luận phân tích việc đồng chí Lê Khả Phiêu ký quyết định số 234 là vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể và đã chỉ thị phải hủy bỏ ngay Quyết định 234 và giải tán ngay bộ phận A10; nhưng không kết luận việc lập bộ phận A10 với động cơ mục đích theo dõi nội bộ cán bộ cấp cao và cũng chưa có cơ sở để kết luận bộ phận A10 đã tổ chức theo dõi nội bộ cấp cao. Nhưng ngày 9 - 1 - 2001, đồng chí Lê Đức Anh đã có văn bản gửi Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội, yêu cầu: “phải chấm dứt ngay mọi hoạt động như việc điều tra Ủy viên Bộ Chính trị; việc lấy danh nghĩa và uy tín quân đội để vận động cho người này, nói xấu người kia, nói xấu các đồng chí Cố vấn, phát biểu mập mờ để gây nghi ngờ một số đồng chí Bộ Chính trị”.<br /><br />Việc đồng chí Lê Đức Anh ra văn bản ngày 9 - 1 - 2001 chỉ thị cho Tổng cục Tình báo và Cục An ninh quân đội phải chấm dứt ngay mọi hoạt động điều tra Bộ Chính trị … là không đúng về nội dung kết luận của Bộ Chính trị trong phiên họp ngày 5 - 1 - 2001 và vượt quá thẩm quyền đồng chí Cố vấn.<br /><br />3 - Về ý kiến phản ánh đồng chí thiếu tôn trọng Trung ương, không khách quan, không công bằng … Đối với nội dung này Ủy ban Kiểm tra Trung ương chưa có điều kiện xem xét đầy đủ. Nhưng có một số việc như: Việc máy bay Lý Tống rải truyền đơn phản động ở thành phố Hồ Chí Minh và Tây Ninh, ngày 17 - 11 - 2000 và bắn nhầm máy bay dân dụng, ngày 18 - 11 - 2000, có liên quan trách nhiệm và khuyết điểm của đồng chí Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phạm Văn Trà và một số đồng chí khác; Bộ Chính trị đang chỉ đạo kiểm điểm xử lý những tập thể và cá nhân liên quan. Nhưng tại Hội nghị Đảng ủy Quân sự Trung ương, ngày 12 - 11 - 2001, đồng chí Lê Đức Anh phát biểu là trong tình hình hiện nay mà đặt vấn đề kỷ luật các đồng chí lãnh đạo Bộ Quốc phòng sẽ gây hoang mang trong quân đội, là thiếu trách nhiệm với Tổ quốc. Ngược lại, đối với đồng chí Lê Khả Phiêu là Tổng Bí thư của Đảng, Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, thì đồng chí đã quy kết nặng nề và đặt vấn đề phải thông báo cho các cấp uỷ trong toàn Đảng và các cấp lãnh đạo, chỉ huy trong toàn quân. Đồng chí còn biết rõ vụ Xiêm Riệp, xảy ra từ năm 1983 và đã được xử lý xong. Đồng chí Lê Khả Phiêu không ở trong số các đồng chí có trách nhiệm phải xem xét, nhưng đến nay, đồng chí lại đưa vấn đề này ra Bộ Chính trị để xem xét.<br /><br />Qua các sự việc đã xem xét cho thấy, khuyết điểm của đồng chí Lê Đức Anh đã gây phân tâm và mất lòng tin của cán bộ đảng viên và nhân dân đối với Đảng, tạo sơ hở để các phần tử thù địch và cơ hội lợi dụng gây chia rẽ, bè phái trong Đảng.<br /><br />Còn nội dung thứ 4 và một số vấn đề khác chưa đủ thời gian và điều kiện xem xét, kết luận. Vậy, Ủy ban Kiểm tra Trung ương xin báo cáo Bộ Chính trị xem xét, quyết định./.<br /><br />Nơi nhận:<br />- Thường vụ Bộ Chính trị<br />(để báo cáo)<br />- Lưu hồ sơ<br /> <br /><br />T/M ỦY BAN KIỂM TRA TRUNG ƯƠNG<br />PHÓ CHỦ NHIỆM<br />Đã ký<br />Vũ Quốc HùngVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-57997980005833981572009-08-06T23:29:00.000-07:002009-08-06T23:33:48.330-07:00No34:Thư của ông Nguyễn Đức Tâm Nguyên Uỷ viên BCT, Trưởng Ban TCTW ĐảngThư của ông Nguyễn Đức Tâm<br /><br />Nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng<br /><br />Kính gửi:<br /> - Bộ chính trị<br /> - Ban chấp hành trung ương đảng<br /><br />1- Chúng tôi một số cách mạng lão thành chiều 24/01/2001 đã được đồng chí Phạm Thế Duyệt do Bộ Chính trị phân công gặp. Những người đã có thư phát biểu với Bộ Chính trị, với Trung ương xung quanh việc chuẩn bị Đại hội IX của Đảng.<br /><br />Tôi đã phát biểu ý kiến trong cuộc gặp mặt đó, nay tôi xin nói cụ thể và phân tích kỹ hơn về hoạt động của các đồng chí Cố vấn.<br /><br />Tôi phải viết rõ vấn đề này vì trước hết là sự đoàn kết trong toàn Đảng và cũng là vì sự nghiệp của Đảng, sự tồn vong của đất nước nếu những hoạt động đó không bị chặn đứng ngay lại.<br /><br />Tôi rất vốn quý trọng các đồng chí Cố vấn và quá trình hoạt động cách mạng, vì sự đóng góp cho cách mạng các đồng chí đã được Đảng và Nhà nước ghi công bằng tấm huân chương sao vàng. Nhưng các hoạt động gần đây của các đồng chí đó chính là đồng chí Đỗ Mười và đồng chí Lê Đức Anh xung quanh vấn đề nhân sự của Đại hội IX đã làm tôi suy nghĩ rất nhiều, nên tôi không thể không phát biểu ý kiến đấu tranh với những hoạt động mà tôi cho là vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức của Đảng, là lộng quyền, là đặt mình lên trên Đảng.<br /><br />Ở đây, tôi chỉ nêu những vấn đề mà tôi trực tiếp chứng kiến, chứ không nêu những vấn đề tôi mới nghe nói lại như việc họp một số cán bộ lão thành ở thành phố Hồ Chí Minh, gọi dây nói cho một số cán bộ để vận động, việc Quân uỷ Trung ương họp để xem xét kỷ luật những đồng chí có liên quan đến việc Lý Tống lái máy bay rải truyền đơn khu vực thành phố Hồ Chí Minh ... (Những vấn đề này đã có mấy đồng chí phát biểu trong cuộc gặp mặt của đồng chí Phạm Thế Duyệt nói ở trên). Dưới đây là một số việc cụ thể:<br /><br />2- Sau khi tôi đề nghị với Bộ chính trị cho triệu tập chúng tôi ít ra là những đồng chí nguyên Uỷ viên Bộ chính trị để chúng tôi phản ánh một số tình hình, phổ biến cho chúng tôi về hướng chuẩn bị nhân sự để khi có anh em đến chơi hỏi chúng tôi thì chúng tôi có thể giải thích theo hướng chung của Bộ Chính trị, phản ánh với Bộ Chính trị tình hình chúng tôi nghe, và chúng tôi cũng có thể góp ý kiến riêng của mình về nhân sự Đại hội. Đề nghị này nhờ đồng chí Phạm Thế Duyệt chuyển đến Bộ Chính trị. Đồng chí Duyệt hứa sáng hôm sau họp sẽ báo cáo với Bộ Chính trị. Đến trưa hôm sau, đồng chí Đỗ Mười gọi dây nói cho tôi báo là tối nay 13/01/2001 tôi sẽ đến nhà anh để thông báo một số tình hình. Nhưng tôi nói: 13h 30’ hôm nay tôi phải đi Thái Bình, hôm nào về tôi sẽ báo lại anh. Rồi anh Mười bận vì đi vào Nam, sau Tết ra mãi tới 06/02/2001 mới gặp tôi được.<br /><br />Khi gặp tôi, anh Mười hỏi ngay: Anh Lê Đức Anh cho người thông báo với anh, anh có ý kiến gì ? (tôi nghĩ ngay là hai người đã bàn bạc với nhau và phân công nhau đi thông báo). Tôi trả lời là nghe qua thư như thế, còn phải tìm hiểu thêm rồi mới có ý kiến được. Anh Mười nói ngay: Rõ ràng rồi, còn phải tìm hiểu gì ? Có gì không rõ sao không hỏi mình. Thế rồi anh phân tích, phê phán những sai trái về quyết định thành lập A10.<br /><br />Sau đó anh đưa cho tôi một bản dài 7-8 trang, bảo tôi xem đi rồi sẽ nói chuyện. Bản này có những báo cáo về hoạt động và nhận xét về 3 người: Đặng Thị Thu Hà, Vũ Thị Dung và người nữa tôi không nhớ tên, với ý chính là: Thu Hà bám rất chặt đồng chí Lê Khả Phiêu, mà Thu Hà lại quan hệ chặt chẽ với Thị Dung và người thứ ba nữa (hai người này là tình báo của Đức, một là tình báo của ....)<br /><br />Ghi chú: Bản báo cáo này không đề ngày tháng, không nguồn những tin đã được cung cấp. Cũng chẳng nói là do ai gửi và gửi cho ai ? Tôi nghĩ: tài liệu này vô giá trị.<br /><br />Tiếp đó anh Mười đưa cho tôi xem một số ảnh, cũng nói là ảnh thu thập được từ nước ngoài và báo chí nước ngoài.<br /><br />Rồi anh Mười lại hỏi: Anh làm về tổ chức, theo anh thì giai quyết thế nào ?<br /><br />Tôi nói: Theo tôi căn cứ tình hình các mặt trong nước và nước ngoài, kẻ địch đang tìm cách phá hoại ta ở biên giới thì Gia Lai, Đắc Lắc vừa có bạo loạn, cho nên ta rất cần phải ổn định chính trị xã hội. Nếu thay đổi đến 50% số Uỷ viên Bộ Chính trị nhất là thay đổi 3 đồng chí chủ chốt và đồng chí Nông Đức Mạnh cũng phải chuyển vị trí công tác thì phức tạp quá. Anh Mười suy nghĩ một chút rồi nói có thể để Phan Văn Khải một vài năm nhưng cũng phải có nghị quyết. Khải chỉ được làm đến thời gian đó để chuẩn bị người thay rồi phải nghỉ. Còn Lê Khả Phiêu phải xét kỷ luật trước Đại hội.<br /><br />(Tôi nghĩ: Tại sao lại có cách giải quyết như thế này ? Phải chăng đó là ý đồ lật đổ đồng chí Tổng Bí thư.)<br /><br />3- Về đồng chí Lê Đức Anh thì khoảng 16-17/01/2001 có cho đồng chí Son, thư ký riêng của anh đến gặp tôi để thông báo về quyết định thành lập A10 và nói đây là vi phạm nguyên tắc Đảng, vi phạm pháp luật Nhà nước và thông báo cho tôi về báo cáo của anh Lê Đức Anh với Bộ Chính trị về 6 hay 7 điều gì đó sai lầm của đồng chí Lê Khả Phiêu. Đồng chí Son cũng nói: Hôm qua tôi đã báo cáo với anh Tố Hữu, anh Tố Hữu cũng cho đây là vi phạm nguyên tắc rất nghiêm trọng phải xử lý. Sau đó một vài ngày, đồng chí Sĩ Nguyên gọi dây nói hỏi tôi: Tôi vừa nghe thư ký của anh Lê Đức Anh đến báo cáo anh có biết không ? Rồi anh Ng. Thanh Bình cũng gọi dây nói hỏi tôi như vậy... anh Chu Huy Mẫn cũng nói vậy ...<br /><br />4- Tôi thấy đây là cuộc vận động có chuẩn bị khá kỹ. Có phân công rõ ràng, với ý đồ không trong sáng trước thềm Đại hội IX, là vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, vi phạm điều lệ Đảng, vi phạm thông báo số 554 ngày 29/11/2000 của Bộ chính trị vì:<br /><br />- Đã tổ chức cuộc vận động của cá nhân mấy người nhằm loại trừ một số cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ra khỏi cương vị của họ.<br /><br />- Nội dung cuộc vận động là đả kích nhằm buộc đồng chí Tổng Bí thư phải từ chức, thậm chí phải bị kỷ luật trước khi Đại hội họp, trong khi đó Bộ Chính trị, Trung ương Đảng chưa có nhận xét kết luận gì về đồng chí Tổng Bí thư.<br /><br />Qua những hoạt động trên đây của các đồng chí Cố vấn, tôi rất suy nghĩ, nhiều đêm không ngủ được vì sự mất đoàn kết trong Đảng chưa từng xảy ra như thế này. Rồi một loạt câu hổi đặt ra:<br /><br />- Vì sao Cố vấn lại vi phạm đến mức này ? Không phải các đồng chí đó không hiểu nguyên tắc đâu, các đồng chí ấy buộc người khác về nguyên tắc thì rất chặt chẽ. Có phải các đồng chí Cố vấn tự cho mình cái quyền cao hơn Bộ Chính trị, cao hơn Trung ương nên coi thường điều lệ không ? Hay vì quyền lợi cá nhân nào đó ? Hay vì muốn đưa những người "thân tín", "tin cậy" của mình vào để dễ bề sai khiến, để theo cái gậy chỉ huy của mình không ? Hay còn vì lý do sâu xa nào khác nữa? Tôi không thể giải đáp nổi xin đề nghị:<br /><br />A- Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương kiểm điểm các đồng chí Cố vấn và quyết định đình chỉ ngay lập tức những hoạt động bè phái đó lại, nếu không, chậm ngày nào sẽ gây ra tác hại càng lớn cho Đảng trong khi kẻ thù trong và ngoài đang lợi dụng mọi cơ hội để phá hoại Đảng ta, Nhà nước ta. Trong khi Đảng ta đang lãnh đạo toàn Đảng toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đang ngày càng có tín nhiệm lớn trong nhân dân. Bạn bè Quốc tế đang tin tưởng ở Đảng và Nhà nước ta.<br /><br />Sau đó cần nghiên cứu, thu thập đầy đủ tài liệu hơn, phân tích kỹ nguyên nhân trước mắt và sâu xa hơn để có thái độ xử lý vấn đề thật thoả đáng.<br /><br />Tôi phát biểu ý kiến đây không phải cường điệu hoá vấn đề đâu, nếu không giải quyết kịp thời thì sẽ gây ra tai hại trước mắt và hậu quả không lường cho lâu dài không xa.<br /><br />Tôi tin tưởng ở sự sáng suốt vững vàng của tập thể Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương Đảng.<br /><br />5- Nhân đây tôi cũng xin báo cáo với Bộ Chính trị và Trung ương Đảng:<br /><br />Ngày 27/02/2001 đồng chí Năm Thi trong Nam ra có đề nghị gặp tôi hỏi lại: Trước đây đồng chí có gửi đồng chí Lê Đức Thọ và tôi, và có gửi cho đồng chí Nguyễn Văn Linh khi đang làm Bí Thư ở thành phố Hồ Chí Minh một thư tố cáo đồng chí Lê Đức Anh nhiều vấn đề (6-7 vđ). Thư ấy đã được giải quyết ra sao, không được hồi âm mà đồng chí Lê Đức Anh càng ngày càng được lên cao để đến hôm nay gây rối cho Đảng.<br /><br />Tôi trả lời đồng chí Năm Thi: Hôm qua, Uỷ ban kiển tra Tung ương đã hỏi tôi về vấn đề này, tôi đã trả lời những ý chính, nhưng bây giờ tôi không thể nhớ hết cả được. Anh Hai Xô cùng ngồi nghe ở đó nói: Tôi sẽ mời anh Đồng Văn Cống ra để báo cáo với Bộ Chính trị về vụ Xiêm Riệp trách nhiệm thuộc về ai ?<br /><br />Về thư của đồng chí Năm Thi tố cáo đồng chí Lê Đức Anh tôi đã trao đổi với anh Lê Đức Thọ, anh Thọ có ý kiến cụ thể như sau: Đây là vấn đề cần quan tâm nhưng chưa đủ cơ sở để kết luận, sau này sẽ tiếp tục kiểm tra (lúc này cũng đang rối lên về nhân sự chủ chốt của Đại hội VI). Sau khi Đại hội VI tôi cũng đã đặt vấn đề với anh Nguyễn Văn Linh nhưng anh Linh cũng không giao trách nhiệm để tổ chức kiểm tra (lý do cụ thể rất phức tạp, tôi không giám viết ra đây chỉ xin trực tiếp báo cáo với Bộ Chính trị hoặc Uỷ ban kiểm tra Trung ương.<br /><br />Thư đã khá dài nhưng như vậy mới đủ cơ sở để Bộ Chính trị và Trung ương xem xét. Rất mong được Bộ Chính trị sớm giải quyết để không thể tiếp tục gây tác hại cho Đảng.<br /><br />Hà Nội, ngày 31 tháng 01 năm 2001<br /><br />Nguyễn Đức TâmVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-78834962679847057152009-08-06T23:27:00.000-07:002009-08-06T23:29:15.179-07:00No33: Một số chuyện bê bối của cựu chủ tịch nước Lê Đức Anh cùng phe pháiYêu cầu giải quyết dứt khoát một số chuyện<br />bê bối của cựu chủ tịch nước<br />Lê Đức Anh cùng phe phái<br /><br />Hà Nội, ngày 02 tháng 04 năm 2001<br /><br />Kính gửi:<br /> - Hội nghị ban chấp hành trung ương lần thứ 12<br /> - Đồng chí tổng bí thư Lê Khả Phiêu<br /> - Uỷ ban kiểm tra trung ương đảng<br /><br />Chúng tôi là Phùng Thế Tài, Hoàng Minh Thảo và Lê Tự Đồng nguyên cán bộ cấp cao Quân đội Nhân dân Việt Nam khẩn thiết báo cáo và đề nghị với lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng, với uỷ ban kiểm tra Trung ương Đảng có kết luận và nghiêm trị những đồng chí đã vi phạm nguyên tắc, điều lệ mang tính bè phái, lật đổ các Cố vấn - đứng đầu là Cố vấn Lê Đức Anh và những kẻ cơ hội theo đuôi Lê Đức Anh với những lý do như sau:<br /><br />Lê Đức Anh đã cho tay chân đi gặp nhiều người đặt điều bêu xấu và vận động lật đổ đồng chí Lê Khả Phiêu như: Đưa thư cho đồng chí Nguyễn Quyết đã bị đồng chí Nguyễn Quyết phản đối và đã báo cáo với đồng chí Phạm Thế Duyệt trong một cuộc họp do đồng chí Phạm Thế Duyệt chủ trì; cho người cầm thư đến vận động đồng chí Trần Văn Quang, Chủ tịch Hội cựu chiến binh Việt Nam đã bị đồng chí Trần Văn Quang từ chối; cho người đưa thư tới vận động đồng chí Hoàng Minh Thảo và cũng bị đồng chí Hoàng Minh Thảo khước từ ...<br /><br />Chúng tôi thiết nghĩ: Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt là những cán bộ cao cấp, là Cố vấn của Ban chấp hành Trung ương Đảng mà lại có những hành động như vậy thật là quá đáng, cần được lên án và cần có kỷ luật nghiêm khắc; tội này còn nặng hơn tội của những người có sai phạm về quan điểm, tư tưởng. Sai phạm của các Cố vấn còn kéo theo một số người cơ hội "theo đóm ăn tàn" như Trưởng ban Văn hoá Tư tưởng đã lạm dụng cương vị của mình để tung dư luận, vận động công khai trong cuộc họp báo mà chúng tôi đã có dịp trình bày (xin gửi kèm theo bài của báo Thanh Niên số 15, thứ tư ngày 17/01/2001)<br /><br />Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng mà Ban chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư phát động đã góp phần khôi phục niềm tin của Nhân dân và Đảng lãnh đạo, tuy chỉ mới bước đầu, đáng lẽ phải củng cố niềm tin hơn nữa thì việc làm của các Cố vấn chẳng khác gì một gáo nước lạnh giữa mùa đông!<br /><br />Chúng tôi cũng đã được tham dự một số lần Đại hội của Đảng ta nhưng chưa lần nào có sự lộn xộn như lần này. Nó đã gây mất ổn định chính trị - xã hội mà tình hình đó lại do các Cố vấn gây nên. Tình hình này ngày càng kéo dài, càng lan rộng bao nhiêu thì kẻ thù của chúng ta càng hý hửng bấy nhiêu.<br /><br />Ngoài những điểm trên, chúng tôi xin hỏi Uỷ ban kiểm tra Trung ương có nghe đồn về việc Lê Đức Anh đã khai man lý lịch để nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng và đã có thời kỳ làm cai phu Đồn điền. Nghe đâu đã có một đồng chí đã tố giác việc này. Thực hư ra sao chúng tôi không rõ, nhưng đây là vấn đề bảo vệ trong sạch của Đảng và cũng là sinh mệnh chính trị của đảng viên, rất mong Uỷ ban kiểm tra Trung ương có xác minh, kết luận rõ ràng.<br /><br />Với lòng thiết tha Đảng ta luôn luôn trong sáng, đoàn két như di chúc của Bác kính yêu, xứng đáng la đội tiên phong theo chủ nghĩa Mác Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.<br /><br />Xin gửi lời chào tin tưởng và mong được hồi âm.<br /><br />Thượng tướng Phùng Thế Tài<br />Thượng tướng Hoàng Minh Thảo<br />Trung tướng Lê Tự ĐồngVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-81253008355070132812009-08-06T23:15:00.000-07:002009-08-06T23:26:57.077-07:00No32: Gửi Đ/c Tổng Bí thư Nông Đức MạnhThành phố Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2005<br /><br /><br />Kính gởi :<br /> - Bộ Chính trị<br /> - Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng<br /> - Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá 9<br /><br />Đồng kính gởi :<br /> - Thành Uỷ thành phố Hồ Chí Minh<br /> - Đại tướng Võ Nguyên Giáp<br /> - Đ/c Lê Khả Phiêu, nguyên Tổng Bí Thơ<br /> - Đ/c Nguyễn Đức Tâm, nguyên Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương<br /><br />Chúng tôi gồm :<br /><br /> 1. Phạm Văn Xô (Hai Xô) sinh năm 1910, vào Đảng năm 1930, nguyên Uỷ viên Thường vụ Xứ uỷ Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp; Uỷ viên Thường vụ Trung ương Cục miền Nam - Trưởng ban kiểm tra Trung ương Cục thời chống Mỹ, nguyên Uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng- Uỷ viên Ban kiểm tra Trung ương khoá 3, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh<br /> 2. Đồng Văn Cống (Bảy Cống), Trung tướng, sinh năm 1918, nguyên trung đoàn trưởng Trung đoàn 99 Nam Bộ thời kháng chiến chống Pháp; tư lệnh quân khu 9, Phó Tư lệnh quân giải phóng miền Nam, Uỷ viên Quân uỷ Miền thời kháng chiến chống Mỹ; Tư lệnh quân khu 7, Phó Tổng Thanh tra quân đội sau ngày đất nước thống nhất, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh.<br /> 3. Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) sinh năm 1920, nguyên Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Uỷ viên tỉnh uỷ, uỷ viên thường vụ Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương) từ năm 1942 đến năm 1946, Chi đội trưởng Chi đội I, Liên trung đoàn trường 301-310, Tư lệnh đặc khu Sài Gòn- Chợ Lớn (1950), Bí thư Đảng bộ nhà tù Côn Đảo (1953) thời kháng chiến chống Pháp; Chủ nhiệm hậu cần Bộ chỉ huy Miền thời chống Mỹ, nghỉ hưu tại thành phố Hồ Chí Minh. <br /><br />Có thư báo cáo và kiến nghị lên các cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng mấy điểm sau đây :<br /><br />Thời gian qua, nhiều cán bộ lão thành cách mạng và cựu chiến binh cao tuổi ở thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Nam Bộ đến gặp chúng tôi hỏi tình hình nội bộ Đảng. Họ đưa chúng tôi xem nhiều tài liệu mà con cháu họ truy cập được từ Internet. Trong các tài liệu đó, có thư của nhiều tướng lĩnh và lão thành cách mạng gửi Bộ Chính trị và Trung ương khoá 9, đặc biệt là thư ngày 3/1/2004 của Đại tướng Võ Nguyên Giáp; các thư của Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị QĐNDVN, nguyên Uỷ viên Trung ương Đảng các khoá 5, 6, 7 của đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh, 65 tuổi Đảng, nguyên Cục trưởng cục tổ chức Tổng cục chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam thời kháng chiến chống Pháp, Uỷ viên Trung ương Đảng khoá 3, của đồng chí Nguyễn Tài, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Pháp luật của Quốc hội khoá 8.<br /><br />Các bức thơ tâm huyết đó đều kiến nghị Bộ chính trị phải sớm đưa ra Hội nghị Trung ương Đảng xem xét và xử lý một loạt các vụ việc nghiêm trọng liên tiếp xảy ra trong Đảng hàng chục năm qua, trong đó có vụ T4, từng được Bộ Chính trị khoá 8 bàn giao lại cho Bộ chính trị khoá 9 và được coi là “một vụ án chính trị siêu nghiêm trọng” nhưng đến nay vẫn chưa vạch mặt những kẻ cầm đầu để xử lý một cách triệt để.<br /><br />Những vụ việc trên, chúng tôi ít nhiều đều có nghe, có biết. Qua các thư trên, chúng tôi càng hiểu rõ hơn. Nhưng do phải chờ kết luận của Trung ương, chúng tôi không thể giải thích cho những người đến hỏi.<br /><br />Nay xin báo cáo và cung cấp một số tư liệu để Trung ương có thêm căn cứ xem xét nguồn gốc các vụ việc nói trên.<br /><br />Theo chúng tôi thì những vụ việc nghiêm trọng xảy ra trong hơn hai chục năm qua, từ Vụ Xiêm Riệp (1983), Sáu Sứ (1991), vụ nâng Cục 2 lên thành Tổng cục 2 với quyền hạn siêu đảng, siêu Nhà nước, được hợp pháp hoá bằng Pháp lệnh tình báo của Quốc hội và Nghị định 96/CP của Chính phủ, Vụ T4 (1997-1999), đến vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trước đại hội 9 v.v... đều có bàn tay của nhân vật từng hoạt động cách mạng và kháng chiến ở Nam Bộ mà chúng tôi đều biết rõ. Đó là nguyên cai đồn điền cao su, nguyên Chủ tịch nước, nguyên Cố vấn Lê Đức Anh.<br /><br />Vì sự trong sạch và vững mạnh của Đảng, với ý thức trách nhiệm của những người Cộng sản từng gắn bó với Đảng và hoạt động ở Nam Bộ hơn sáu bảy chục năm qua, chúng tôi xin báo cáo với Đảng một số hiểu biết về Lê Đức Anh như sau:<br /><br />1. Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su như tự khai trong lý lịch mà là người phụ trách việc chế biến thực phẩm cho chủ đồn điền và các quan chức Pháp ở Lộc Ninh (chef des cooperatives) từ đầu thập kỷ 40 của thế kỷ 20, được anh chị em công nhân cao su đặt cho biệt danh là "cai lé" do chột mắt vì bệnh đậu mùa. Lê Đức Anh là người giúp việc thân cận của chủ đồn điền De Lalant, một sĩ quan phòng nhì của Pháp. Lương của y cao như lương của Chef de camp.<br /><br />Năm 1955, sau khi bộ đội Nam Bộ tập kết ra miền Bắc, đồng chí Trần Văn Trà là Tư lệnh kiêm Chính uỷ, đồng chí Nguyễn Văn Vịnh là Phó Chính uỷ, đồng chí Đồng Văn Cống làm tham mưu trưởng, Lê Đức Anh làm tham mưu phó. Thấy Lê Đức Anh không được vào Đảng uỷ, đ/c Đồng Văn Cống hỏi thì đ/c Vịnh trả lời “Qua lớp chỉnh Đảng ở Việt Bắc, lý lịch của Lê Đức Anh không rõ, nên không giới thiệu”<br /><br />Trong một lần tâm sự với Lê Đức Anh, đ/c Đồng Văn Cống hỏi “nghe người ta nói cậu là surveillant ?”. Lê Đức Anh không trả lời. Đ/c Đồng Văn Cống hỏi tiếp : “hay cậu là 2è bureau (phòng nhì) ?”. Lúc ấy Lê Đức Anh mới hỏi : “tôi làm công chức cho đồn điền”<br /><br />Đến Đại hội Đảng lần 4 năm 1976, đ/c Đồng Văn Cống, Lê Đức Anh và Nguyễn Chánh Nam bộ cùng dự đại hội, sinh hoạt trong Đoàn Quân sự. Khi xem danh sách giới thiệu vào Trung ương khoá 4, thấy ghi Lê Đức Anh là công nhân cao su, đ/c Đồng Văn Cống hỏi : “sao cậu khai là công nhân ?”. Lê Đức Anh ấp úng trả lời “họ ghi sai, tôi là công chức!”<br /><br />2. Lê Đức Anh không phải là Đảng viên từ năm 1938 mà từ tháng 4 năm 1945, khi Ban cán sự Đảng Thủ Dầu Một tuyên bố tổ chức y vào Đảng và giao nhiệm vụ cho y về gây dựng cơ sở cách mạng ở đồn điền cao su Lộc Ninh trong một cuộc họp có 8 người, trong đó có đồng chí Năm Thi tham dự, vì thấy y tỏ ra hăng hái trong phong trào công nhân cao su ở Lộc Ninh sau ngày Nhật đảo chánh Pháp. Cuộc họp đó do Bí thơ Văn Công Khai chủ trì bàn việc phối hợp với phe Đồng minh chống phát xít Nhật theo chủ trương chung của Mặt trận Việt Minh.<br /><br />Do man khai đảng viên từ năm 1938, nên năm 1998, Lê Đức Anh được tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng, được báo chí, truyền hình rầm rộ đưa tin trên cả nước!<br /><br />Đầu năm 2002, để tiếp tục "hợp thức hoá" đảng tịch của mình, Lê Đức Anh cho công chiếu trên đài truyền hình Trung ương bộ phim tài liệu nhan đề "Đồng chí Lê Đức Anh" vào tối mùng 4 Tết. Không tìm được "nhân chứng lịch sử" nào sáng giá hơn, người ta cho xuất hiện một ông anh trong gia đình để xác nhận "Lê Đức Anh từng đậu Đíp-lôm (Thành Chung) và vào Đảng năm 1938!".<br /><br />3. Lê Đức Anh đã hai lần để sổng toàn quyền Decoux, thống đốc Nam kỳ Hoffen và chủ đồn điền De Lalant, sĩ quan phòng nhì của Pháp.<br /><br />Trong cuộc đảo chánh Nhật-Pháp ngày 9/3/1945, quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông dương Decoux và thống đốc Nam kỳ Hoffen tại Sài Gòn, sau đó giải về giam ở nhà De Lalant, chủ đồn điền cao su ở Lộc Ninh. Đ/c Năm Thi được giao nhiệm vụ dẫn một đội vũ trang lên Lộc Ninh tìm cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ Decoux và đồng bọn lên Buôn Mê Thuột để đưa ra Bắc chuyển giao cho Trung ương. Đ/c Năm Thi đã bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất trí lên kế hoạch phối hợp hành động. Nhưng đêm hôm sau, y bất ngờ huỷ bỏ kế hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo lên khủng bố, phá vỡ cơ sở cách mạng của y!.<br /><br />Tháng 9/1945, khi chỉ huy quân Anh vào Nam vĩ tuyến 16 tiếp nhận sự đầu hàng của quân Nhật, tướng Gracey đòi Nhật trao Decoux và đồng bọn cho quân đội Anh. Để ngăn cản việc đó, Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một chủ trương cắt đường giao thông từ Lộc Ninh về Sài Gòn, bằng cách đốn cây cản đường từ Lộc Ninh về Hớn Quản rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để bắt bọn Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đã được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện nhiệm vụ này. Y nhận lệnh nhưng đã tránh né, cử người khác làm thay. Tên này đã lệnh cho tự vệ dỡ cây và mở đường cho bọn Nhật đưa Decoux, Hoffen và De Lalant về Sài Gòn an toàn!<br /><br />4. Trong thời kỳ đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam bộ, Lê Đức Anh đã bỏ chạy không tổ chức cho lực lượng võ trang đánh trả quân Pháp tập kích vào Thuận Lợi, phá huỷ một khối lượng lớn cơ sở vật chất dự trữ của miền Đông.<br /><br />Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, ta chủ trương di chuyển máy móc thiết bị, vật tư, lương thực của các đồn điền cao su và các địa phương miền Đông Nam bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) thuộc Công ty cao su Dầu Tiếng là địa bàn ở sâu trong hậu phương ta. Trong khi quân Pháp tập kích Thuận Lợi, Lê Đức Anh và lực lượng võ trang thuộc quyền của y đang đóng trên đất Thuận Lợi nhưng đã không tổ chức chiến đấu đánh trả quân địch mà bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó, Thuận Lợi bị quân Pháp đốt cháy toàn bộ kho tàng, nhà cửa trong ba ngày đêm liền. Nghe tin Tư lệnh Nguyễn Bình sẽ xử tử mình vì tội đó, Lê Đức Anh bèn lánh mặt, đưa quân về vùng Bắc Bến Cát. (Lúc ấy, đ/c Năm Thi là Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ, chi đội phó, kiêm tham mưu trưởng Chi đội I Thủ Dầu Một nên biết rõ việc này).<br /><br />5. Từ năm 1979 đến 1989, lãnh đạo và chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu và giúp bạn ở Campuchia, Lê Đức Anh đã phạm nhiều sai lầm về chính trị và quân sự.<br /><br />- Về chính trị : ngoài vụ Xiêm Riệp bắt nguồn từ chủ trương "đánh địch ngầm" do Lê Đức Thọ và Lê Đức Anh đề ra, Lê Đức Anh đã có nhiều biểu hiện và hành vi coi thường bạn, cho kiểm tra nhà ở của một số uỷ viên Bộ Chính trị Đảng nhân dân cách mạng CPC, bao biện làm thay, can thiệp vào công việc nội bộ, bắt bớ Đảng viên của bạn khiến bạn phản ứng và nghi ngờ tình cảm quốc tế trong sáng của Đảng, Nhà nước và quân đội ta.<br /><br />- Về quân sự : đã đánh giá quá thấp kẻđịch, chủ trương "trong năm 1980, quét sạch quân địch ngoài địa hình mà trọng điểm là vùng rừng Ô-Ran, đồng thời hoàn thành về cơ bản nhiệm vụ phá tan âm mưu địch dùng phần tử hai mặt lũng đoạn đảng và chính quyền của bạn" (1). Đã chỉ đạo chiến tranh theo kiểu ăn đong, năm này chưa xong thì năm sau, kéo dài đến mười năm vẫn chưa diệt được đối thủ mà Lê Đức Anh gọi là "tàn quân" Pônpốt!<br /><br />Từ cuối năm 1979, Lê Đức Anh đề ra chủ trương "khoá chặt biên giới", "xây dựng tuyến phòng thủ biên giới" với mật danh K5 bằng cách huy động đông đảo nhân dân các địa phương nước bạn, từ rừng núi đến đồng bằng lên biên giới cùng quân tình nguyện Việt Nam và bộ đội bạn chặt cây, đào hào, rải chông và căng giây thép gai nhằm ngăn chặn quân PônPốt từ Thái Lan vào đất Campuchia (!). Mặc dù ta và bạn đã bỏ ra nhiều công sức và tiền của trong nhiều năm, nhưng biên giới vẫn không "khoá chặt" được, địch vẫn mở được hành lang qua biên giới vào nội địa, xây dựng được nhiều căn cứ dọc biên giới, có nơi vào sâu đến 30, 40 kilômét.<br /><br />Do chủ trương sai lầm của Lê Đức Anh mà hàng chục vạn cán bộ chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam cũng như bộ đội và nhân dân bạn đã bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200km cũng như trong nội địa do bị địch đánh úp,do mìn và sốt rét ác tính!<br /><br />Mặc dù vậy, đến năm 1983, Lê Đức Anh vẫn cho rằng ở Campuchia chưa có chiến tranh, chỉ mới là những "hoạt động du kích" của "tàn quân PônPốt". Chúng sẽ bị tàn lụi vào năm 1985 như Nghị quyết của Ban cán sự và Bộ Tư lệnh 719! Khi bộ phận tiền phương của Cục khoa học quân sự Bộ Tổng tham mưu tại Campuchia đề nghị nên có sự đánh giá khách quan hơn, có sự chỉ huy chiến tranh bài bản hơn trên cơ sở nghiên cứu tính chất và đặc điểm của cuộc chiến tranh ở Campuchia để tìm ra quy luật đặc thù của nó, thì Lê Đức Anh nổi giận, ra lệnh cho cơ quan tiền phương Cục Khoa học quân sự gồm 10 đại tá phải rút ngay về nước, trả lại cho Bộ Tổng tham mưu với lý do "tinh giản biên chế ở chiến trường !".<br /><br />Có những sai lầm khuyết điểm như trên, nhưng Lê Đức Anh vẫn thăng tiến rất nhanh, từ Uỷ viên Trung ương khoá 4 lọt vào Bộ Chính trị khoá 5 rồi tiến lên nắm chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Chủ tịch nước !<br /><br />6. Trong quan hệ gia đình, Lê Đức Anh là người chồng phản bội : Ra Bắc được mấy năm, Lê Đức Anh nói với đ/c Đồng Văn Cống là sẽ xin lấy vợ khác, vì bà Bảy Anh trong Nam đã lấy chồng, lại thuộc thành phần gia đình phản động làm tay sai cho địch ! Đ/c Đồng Văn Cống nói : “Hôm ở Cao Lãnh tôi thấy chị Bảy khóc rất dữ khi tiễn Anh đi tập kết; nghe nói sau đó chị về công tác ở miền Đông, căn cứ vào đâu mà anh nói Chị đi lấy chồng và theo địch ? Tôi không tán thành”<br /><br />Nhưng rồi nhờ sự ủng hộ của Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh vẫn bỏ được vợ cũ, lấy được vợ mới. Trong lúc đó thì trong hoàn cảnh đấu tranh khốc liệt và gian khổ ở miền Nam, chị Bảy Anh vẫn một lòng kiên trung chờ đợi và tiếp tục hoạt động cách mạng, làm Uỷ viên tỉnh uỷ Bình Dương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng !<br /><br />Khi biết chuyện này, các đồng chí Phạm Hùng, Nguyễn Thị Định và đồng bào cán bộ miền Nam đều rất bất bình, cho Lê Đức Anh là một tên vô đạo đức !<br /><br />***<br /><br />Thưa Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng !<br /><br />Đây không phải lần đầu tiên các Đảng viên Nam bộ báo cáo với Đảng những hiểu biết nói trên về Lê Đức Anh.<br /><br />Từ năm 1982, khi được tin Lê Đức Anh vào Bộ Chính trị khoá 5, đồng chí Thiếu tướng Tô Ký và hai đồng chí Bảy Cống và Năm Thi bàn nhau và đã làm báo cáo gởi Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng và Thường vụ Thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh, nhưng không có hồi âm !<br /><br />Cuối năm 1986 đầu năm 1987, khi thấy Lê Đức Anh lại được bầu vào Bộ Chính trị rồi làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng sau hai cái chết bất ngờ của 2 đại tướng Hoàng Văn Thái và Lê Trọng Tấn, đ/c Nguyễn Văn Thi lại viết thơ tay gởi trực tiếp đến các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Đức Tâm, Lê Đức Thọ nói rõ lai lịch và những hành động đáng ngờ của Lê Đức Anh trước và sau cách mạng tháng 8/1945, nhưng 18 năm qua các khoá trung ương vẫn chưa có trả lời!.<br /><br />Đến Hội nghị trung ương 11B khoá 8 tháng 2 năm 2001, trước thủ đoạn nói xấu, vu khống quá lộ liễu của Lê Đức Anh nhằm lật đổ Tổng Bí thơ Lê Khả Phiêu, đồng chí Hai Xô đang làm việc ở Hà Nội biết đ/c Năm Thi từng có đơn tố giác, bèn gọi Năm Thi ra gặp các đồng chí Hai Xô, Nguyễn Đức Tâm, Mười Hương và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương để làm rõ quá khứ của Lê Đức Anh (đ/c Đồng Văn Cống không ra Hà Nội trực tiếp báo cáo, đã phát biểu vào băng ghi âm gởi ra Uỷ ban Kiểm tra trung ương vào đầu tháng 3 năm 2001). Trong cuộc họp đó, đ/c Nguyễn Đức Tâm xác nhận : khi làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, có nhận được thơ tố giác của đ/c Năm Thi, đã báo cáo với Lê Đức Thọ nhưng được trả lời là gác lại, giải quyết sau. Thấy Lê Đức Anh đựơc Lê Đức Thọ bảo vệ, đ/c Nguyễn Văn Linh đành phải gác qua. Cũng trong cuộc họp đó, đ/c Hai Xô phát biểu : “Nếu không chặn đứng được mưu đồ của Lê Đức Anh và đồng bọn, thì tình hình nội bộ Đảng sẽ ngày càng nghiêm trọng!”<br /><br />Như vậy là hơn hai chục năm qua, qua nhiều lần Đại hội Đảng và nhiều khoá Trung ương, chúng tôi đã nhiều lần nói rõ về Lê Đức Anh, nhưng mãi cho đến nay lai lịch, và các hành vi sai trái của nhân vật này vẫn chưa được xác minh và xử lý, gây tác hại nghiêm trọng đến sự trong sạch và vững mạnh, sự đoàn kết và thống nhất của Đảng.<br /><br />Chúng tôi nhất trí với ý kiến của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là “Ban chấp hành trung ương khoá 9 cần xử lý kiên quyết, dứt điểm, nghiêm minh những vụ việc tồn đọng nói trên theo đúng Điều lệ của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và kỷ luật của quân đội, dù người đó là ai, ở bất kỳ cương vị nào !”.<br /><br />Chúng tôi tán thành ý kiến của các đ/c Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Nam Khánh, Nguyễn Tài v.v.... là “không cho phép duy trì mãi một tổ chức siêu đảng, siêu chính phủ, không thể để Tổng cục 2 tồn tại với quyền hạn quá rộng như Nghị định 96/CP cho phép, mà chỉ tập trung vào nhiệm vụ tình báo quân sự trực thuộc Bộ Tổng tham mưu như trước đây”.<br /><br />Không cho phép tái diễn những hành vi hãm hại người trung thực, như người ta từng vu khống, tước quân hàm và định bắt giam Thượng tướng Trần Văn Trà, sau đó phải trả lại quân hàm mà không công bố; từng vu khống với ý đồ hãm hại Đại tướng Khai quốc công thần Võ Nguyên Giáp !<br /><br />Chúng tôi cho rằng : Không chỉ riêng vụ T4 mà toàn bộ những vụ việc xảy ra mấy chục năm qua là những mắt xích của một vụ án chính trị nghiêm trọng nhất trong lịch sử 75 năm của Đảng, có quan hệ đến sự tồn vong của Đảng và đất nước.<br /><br />Đây không phải là "chuyện ngày xưa" của mấy vị cách mạng lão thành mà các khoá Bộ chính trị và Trung ương sau này không thể làm rõ được ! Không ! Đây là những vấn đề lịch sử quan trọng cần xác minh để soi sáng những vụ việc ngày nay. Mảnh đất Lộc Ninh và không ít nhân chứng cùng thời vẫn còn sống. Chỉ cần có trách nhiệm, có dũng khí và quyết tâm là làm được ! Chúng tôi sẵn sàng có một cuộc đối chất trực diện nếu có Bộ chính trị yêu cầu !<br /><br />Không thể vin vào lý do : "ổn định nội bộ" mà bỏ qua và che dấu việc này, vì nhiều tài liệu đã được công bố trên Internet, nên trong Đảng cũng như ngoài Đảng, trong nước cũng như ngoài nước, nhiều người đã biết các vụ việc xảy ra. Hồ Chủ Tịch nói : “Một Đảng che dấu khuyết điểm sai lầm của mình là một Đảng hỏng!”. Bộ Chính trị càng bưng bít thì càng mất uy tín, càng làm giảm lòng tin của Đảng viên và quần chúng đối với Trung ướng.<br /><br />Đúng như đồng chí Nguyễn Trọng Vĩnh đã cảnh báo : “Đang có những làn sóng bất bình ngầm ngày càng lan rộng. Sự yên lặng hiện nay là sự yên lặng của những quả bom nổ chậm chưa đến giờ hẹn”. Tình hình trong Nam cũng vậy.<br /><br />Kính mong Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương lắng nghe tiếng nói đầy tâm huyết của các tướng lĩnh, các cán bộ cách mạng lão thành mà quá trình hoạt động và sự đóng góp cho cách mạng đã chứng minh sự trung thành của họ.<br /><br />Giải quýêt dứt điểm và thành công vụ án chính trị siêu nghiêm trọng này, kiên quyết loại trừ những phần tử cơ hội ra khỏi các cơ quan quyền lực của Đảng và Nhà nước, chấm dứt các hiện tượng cá nhân lũng đoạn là việc làm cấp thiết và cực kỳ quan trọng để chuẩn bị cho Đại hội toàn quốc lần thứ 10 của Đảng.<br /><br />Đây cũng là việc làm thiết thực kỷ niệm 75 năm ngày thành lập Đảng ta!<br /><br />Xin gởi đến các đồng chí Bộ Chính trị và Trung ương lời chào trân trọng và rất mong được sớm trả lời!<br /><br />Xin cám ơn./.<br /><br />Phạm Văn Xô<br />(Đã ký)<br /><br />Địa chỉ: 225/18 Xô Viết nghệ Tinh, quận Bình Thạnh, TP. Hồ Chí Minh<br />Điện thoại : 8.991300<br /> <br /><br />Đồng Văn Cống<br />(Đã ký)<br /><br />Địa chỉ: 774/2 Nguyễn Kiệm, quận Phú Nhuận, TP. Hồ Chí Minh<br />Điện thoại : 8.447328<br /> <br /><br />Nguyễn Văn Thi<br />(Đã ký)<br /><br />Địa chỉ: 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực, đường 3/2, quận 10, TP. HCM<br />Điện thoại : 8.655878Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-45494626423213877592009-08-06T23:13:00.000-07:002009-08-06T23:15:16.659-07:00No31: Thư ngỏ : Gửi những người còn lương tri và danh dự .Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam<br />Độc lập - Tự do - Hạnh phúc<br />Thư ngỏ<br /><br />Cựu chiến binh Trần Bá - 53 Cầu Gỗ - Hà Nội<br /><br />Kính gửi: Những người còn lương tri và danh dự trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Việt Nam<br /><br />Đồng kính gửi: Công dân Nguyễn Văn An - 502 Trần Phú Hà Đông và những người yêu nước còn lương tri và danh dự<br /><br />Kính thưa Quý vị,<br /><br />Tết xong tôi nhận được bức thư của Công dân Nguyễn Văn An - 502 Trần Phú - Hà Đông - gửi cho ông Trần Bá - 53 Cầu Gỗ - Hà Nội.<br /><br />Trong phong bì có 2 bức thư: 1 của Ông Nguyễn Tài và 1 của Ông Nguyễn Trọng Vĩnh. Cuối bức thư ông Vĩnh, ông An ghi mấy dòng như sau: "Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dấu mốc son trong lịch sử thiêng liêng, quan trọng của Đảng. Đại hội 1, 2, 3, 4, 5, 6 là như thế. Nhưng đến Đại hội VIII, Lê Đức Anh gây ra vụ Sáu Sứ, đấy là vết nhơ không bao giờ rửa sạch được. Đến Đại hội IX, cũng lại Lê Đức Anh gây ra vụ lật đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, lại là vết nhơ thứ 2 ở hai kỳ Đại hội Đảng. Nhưng Lê Đức Anh vẫn không bị kỷ luật gì cả! Vậy chỉnh đốn Đảng ở đâu ? Liệu Đại hội X có tốt đẹp không hay lại có vết nhơ khác !? Ôi!...!...?".<br /><br />Đọc thư ông An, tôi ngầm hiểu: ông muốn nhắc nhở trách nhiệm + nghĩa vụ công dân + quân nhân, Đảng viên của tôi.<br /><br />Để đáp lại, tôi xin có mấy ý kiến như sau:<br /><br />Trong thư ông An chưa đả động đến (có thể do chưa biết) vụ Tổng cục II + T4 (một tổ chức do Lê Đức Anh và bộ hạ của nó nặn ra để sát hại đồng chí + đồng đội của nó, mà Đại tướng Võ Nguyên Giáp gọi là Siêu Đảng Siêu Nhà nước) đứng đầu Tổng cục II + T4 là Trung tướng Vũ Chính, khi Chính về hưu thì con rể là Nguyễn Chí Vịnh lên thay với hàm Thiếu tướng, do Bộ trưởng Quốc phòng Phạm Văn Trà trực tiếp lãnh đạo + chỉ huy được đặt dưới sự thống lĩnh trực tiếp + tuyệt đối về mọi mặt của Chủ tịch nước Lê Đức Anh (trước đây) rồi chủ tịch Trần Đức Lương (hiện nay). Chúng đã dựng lên trên 250 bản tin giả mạo để vu khống chính trị cực kỳ nghiêm trọng - kéo dài 10 năm - nhằm đánh vào đầu não Quân đội +đầu não Công an + đầu não Quốc hội + đầu não Chính phủ + đầu não Đảng! Với 2 đặc đẳng Đại Công thần là Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng, người đã sát cánh cùng Lãnh tụ Hồ Chí Minh lãnh đạo làm nên Cách mang tháng 8 - 45 + khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa và đưa 2 cuộc kháng chiến thần thánh đến toàn thắng nó cũng không từ! Ngoài vu khống chính trị chúng còn "cấp thẻ Quân báo cho tay chân Năm Cam phá nước hại dân", tệ hại và trắng trợn là bản "kế hoạch Phòng thủ bầu trời Tổ quốc cho nước ngoài!".<br /><br />* Mặc dù không nói đến nội dung phá hoại + phản bội cực kỳ nghiêm trọng đó, ông An vẫn khẳng định được tên Đầu Sỏ bày trò phản Đảng, phản Cách mạng chính là Lê Đức Anh và nêu thắc mắc: "Nhưng Lê Đức Anh vẫn không bị kỷ luật gì cả ? Vậy chỉnh đốn Đảng ở đâu ?!".<br /><br />* Vụ việc cực kỳ nghiêm trọng đó đã dấy lên một làn sóng phẫn nộ và phản đối trong các lực lượng: Cách mạng lão thành + tướng lĩnh + CCB + nhân sĩ trí thức + cùng những người yêu nước còn lương tri + danh dự. Họ cực lực lên án + nguyền rủa, đòi bắt giam và truy tố về tội phản bội Đảng, phản bội Cách mạng đối với Vũ Chính + Nguyễn Chí Vịnh + Phạm Văn Trà + Lê Đức Anh vì đó là những tên chỉ huy + lãnh đạo + thống lĩnh - không phải một năm mà gần cả chục năm - bọn tội phạm : Nguyên + Chấp + Vinh + Hà đang nằm trong nhà giam!<br /><br />* Bất chấp và chà đạp trắng trợn dư luận phản đối + lên án; bất chấp và chà đạp trắng trợn nguyên tắc tổ chức + Nghị quyết + Điều lệ Đảng; bất chấp và chà đạp trắng trợn Hiến pháp + Pháp luật Nhà nước; bất chấp và chà đạp trắng trợn Điều lệnh Kỷ luật Quân đội...! Những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước chẳng những đã không chấp hành kỷ luật + bắt giam + khởi tố những tên Chỉ huy + lãnh đạo+ thống lĩnh bọn tội phạm phản Đảng, phản cách mạng mà ngược lại còn "thăng quan tiến chức" từ Thiếu tướng lên Trung tướng cho Nguyễn Chí Vịnh, Tổng cục trưởng Tổng cục II, tên trực tiếp chỉ huy bọn tội phạm (Nguyên + Chấp + Vinh + Hà) phản bội Đảng, phản bội cách mạng đó!<br /><br />* Phong hàm Trung tướng cho tên trực tiếp chỉ huy bọn tội phạm phản Đảng, phản cách mạng, những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã tự vạch mặt + khẳng định + chứng minh và giới thiệu với toàn Đảng toàn quân toàn dân rằng: Họ đứng hẳn về phía Lê Đức Anh, Phạm Văn Trà + Vũ Chính + Nguyễn Chí Vịnh - những tên Chỉ huy + lãnh đạo + thống lĩnh bọn tội phạm; ra sức bênh vực + bao che cho hành động phản Đảng phản cách mạng của Tổng cục II + T4! Có thể nói một cách hình ảnh là: "Những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay đã bị Lê Đức Anh + Phạm Văn Trà + Vũ Chính + Nguyễn Chí Vịnh xâu mũi + bắt làm Tù Binh cho Tổng cục II + T4! Thực sự biến họ thành những tên "phản Đảng phản CMạng"! Và một khi những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước đứng vào hàng ngũ bọn phản Đảng phản CMạng thì phải gọi là cái Đảng và cái Nhà nước mà họ đang lãnh đạo là cái Đảng gì ? Cái nhà nước gì ?<br /><br />* Vụ Tổng cục II + T4 đã làm cho Chóp Bu của Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam hiện nay phân hoá thành 2 phái với 2 cực đối lập nhau:<br /><br /> * Phái đòi đưa Tổng cục II +T4 ra công khai trừng trị theo Pháp luật gồm có: Võ Nguyên Giáp + Nguyễn Nam Khánh + Nguyễn Tài + Nguyễn Trọng Vĩnh + Lương Đống + Phạm Văn Xô + Đồng Văn Cống + Năm Thi + Đoàn Y Thanh...vân vân...<br /> * Phái Bảo vệ +Bênh vực + Bao che Tổng cục II + T4, gồm có: Phạm Văn Trà + Vũ Chính + Nguyễn Chí Vịnh + 4 tên trong nhà giam, do Lê Đức Anh thống lĩnh, cùng với những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và nhà Nước hiện nay.... <br /><br />* Xin được hỏi:<br /><br /> * Phái nào yêu nước và CMạng thật còn phái nào yêu nước và CMạng dởm ?<br /> * Phái nào trung thành với Mac + Lênin + Hồ Chí Minh còn phái nào phản bội Mac + Lênin + Hồ Chí Minh ?<br /> * Phái nào thực sự bảo vệ Đảng và Nhà nước, còn phái nào phản bội + chống phá Đảng và Nhà nước ?<br /> * Phái chân chính CMạng và phái phản bội CMạng chưa bao giờ phơi bày rõ mặt như hiện nay! Trẻ con cũng nhận biết được ! <br /><br />* Những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay tuy không công khai tuyên bố họ phản Đảng phản CMạng. Nhưng qua việc họ cùng nhau nhất trí ra Quyết Định phong hàm Trung tướng cho Nguyễn Chí Vịnh (tên chỉ huy trực tiếp bọn tội phạm phản Đảng phản CMạng) chính là họ tự khẳng định mình đứng vào hàng ngũ phản Đảng phản CMạng cùng với Anh + Trà + Chính + Vịnh và Nguyên Chấp + Vinh + Hà... không cách gì biện bạch chối bỏ được!<br /><br />* Họ tự nguyện đứng vào phản Đảng phản CMạng để chỉ đạo tiến hành Đại Hội X ! Vậy phải gọi Đại Hội X của Đảng là Đại Hội gì đây ?<br /><br /> * Đại Hội bảo vệ Đảng và CMạng hay Đại Hội chống phá Đảng và CMạng ?<br /> * Đại Hội "xây dựng chỉnh đốn Đảng" hay Đại Hội tàn phá tan rã Đảng ? <br /><br />* Họ công khai tự phơi bày bộ mặt phản Đảng phản CMạng với sự thách thức láo xược Lương tri + Danh dự người yêu nước V.Nam trắng trợn và tàn bạo như thế thì họ có còn đủ tư cách để lãnh đạo Đảng và Nhà nước CMạng của Hồ Chí Minh nữa không ?<br /><br />* Cái Quyết Định phong hàm Trung tướng cho tên Chỉ huy bọn tội phạm phản Đảng phản CMạng chính là Quyết định khai tử Chất CMạng trong các vị đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước V.Nam hiện nay! Và nếu những người Chân chính CMạng V.Nam không lên tiếng phản đối Quyết Định đó cũng tức là đồng tình việc khai tử Chất CMạng trong Đảng và Nhà nước của Hồ Chí Minh, biến nó thành Đảng và Nhà nước phản CMạng của bè lũ 3 tên họ Lê: Lê Duẩn + Lê Đức Thọ + Lê Đức Anh.<br /><br />* Tôi thật sự lấy làm xấu hổ và vô cùng nhục nhã cho cái Đảng và Nhà nước mà tôi và đồng chí + đồng đội của tôi đã cống hiến trọn đời không tiếc máu xương để xây dựng và bảo vệ nó. Thế mà bây giờ nó biến chất + thoái hoá + thối nát, gây ra những Quốc nạn + Đảng nạn + Quốc nhục + Đảng nhục cực kỳ nghiêm trọng, càng chống càng phát triển và vô phương cứu chữa như hiện nay!<br /><br /> Kính thưa quý vị<br /><br />Nhân danh một Công dân của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, có Vinh dự theo Hồ Chí Minh + Võ Nguyên Giáp + Phạm Văn Đồng làm nên CMạng tháng 8- 45 + khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, lấy Binh nghiệp cứu Nước làm lẽ sống cho toàn bộ cuộc đời - có 80 tuổi đời + trên 40 tuổi Quân + 59 tuổi Đảng - Tôi xin gửi trả lại cho Đảng và Nhà nước đã biến chất: Huy hiệu 40 +50 tuổi Đảng + Huy chương Quân kỳ quyết thắng và toàn bộ Huân + Huy chương chống Pháp + Mỹ mà Đảng và Nhà nước tặng thưởng trên 40 năm qua, để cực lực phản đối và nghiêm khắc lên án cái Chủ trương Bảo vệ + Bênh che trọng tội của Tổng cục II + T4 cùng với những tên Chỉ huy + Lãnh đạo + Thống lĩnh bọn tội phạm của những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay!<br /><br />Đặc biệt tôi cực lực phản đối sự có mặt của Lê Đức Anh trong Đảng, trong Quân đội và trong Cộng đồng với danh nghĩa Đồng Chí + Đồng Đội + Đồng Bào! Tôi cho đó là một điều sĩ nhục nên dứt khoát tuyên bố:<br /><br />"Không bao giờ tôi chấp nhận Đồng chí + Đồng đội + Đồng bào với tên Việt gian từng làm chó săn cho Mật thám Pháp trước CMạng tháng 8-45, rồi khai man lý lịch chui vào Quân đội và Đảng, được Lê Đức Thọ cho leo lên tột đỉnh để tàn phá Đảng và Nhà nước như hiện nay!"<br /><br />Đồng thời tôi kêu gọi Lương tri + Danh dự mọi người V.Nam yêu nước hãy bày tỏ thái độ của mình với chủ trương bênh vực + bao che... bọn tội phạm phản Đảng phản CMạng của những người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Đảng và Nhà nước hiện nay!<br /><br />Tôi cho đó là cách duy nhất để rửa hận + rửa nhục cho Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Muốn cứu Đảng cứu Nước không còn phương sách nào khác.<br /><br />Xin trân trọng kính chào Quý vị ./.<br /><br />Hà Nội: 27- 3- 2005<br />Công dân: Trần Bá<br />(đã ký)<br />Cựu chiến binh-53 Cầu gỗ- HNVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-31759870870928555292009-08-06T23:10:00.000-07:002009-08-06T23:13:17.085-07:00No30:Gửi những người đang chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 10Kính gửi: Những người đang chuẩn bị Đại hội Đảng lần thứ 10<br /><br />Hà Nội, ngày 20 tháng 9 năm 2005<br /><br />Đảng Lao Động Việt Nam đã làm tròn nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám hoàn thành Cách mạng Dân tộc Dân chủ Nhân dân xứng đáng là một Đảng Cách mạng anh hùng ở Đông Nam Á mới 15 tuổi đã giành được Chính quyền, tổ chức Quân đội đánh thắng giặc ngoại xâm.<br />Thời gian này, Đảng Lao Động Việt Nam có một sai lầm lớn về đường lối là Cải cách ruộng đất (theo Tầu) nên đã chỉnh đốn tổ chức nhầm bắn giết hàng vạn Đảng viên trung kiên.<br />Nhưng ngày đó còn Lãnh tụ Hồ Chí Minh nghiêm túc tự phê bình, thấy rõ sai lầm.<br />Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ vào mình và nói trước nhân dân: “... Sai lầm về cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức bắn giết hàng vạn Đảng viên trung kiên là do lỗi ở tôi<br />Bây giờ đã thấy rõ sai lầm, tôi xin với nhân dân cho tôi tích cực sửa chữa, mong bà con cùng tôi phát hiện những sai lầm và cùng tôi ra sức sửa chữa”.<br /><br />* *<br /><br />Năm 1975, Lê Duẩn đã có chủ trương sai về đường lối để đề cao mình làm Lãnh tụ thay Chủ tịch Hồ Chí Minh.<br />1) Thay đổi tên Nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.<br />2) Thay đổi Quốc ca (sau các Nhạc sĩ không làm được bài nào hơn Tiến Quân Ca của Văn Cao, nên chỉ sửa chữa lời bài Tiến Quân Ca).<br />3) Lê Duẩn còn định chuyển Thủ đô vào Tây Nguyên để xóa hẳn vết tích của Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, làm Lãnh tụ nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.<br /><br />Nhân đây tôi xin viết thêm: Lê Duẩn định làm Chủ tịch Đảng.<br />Khi họp Bộ Chính trị lúc ấy chỉ có ba (*) người: 1- Lê Duẩn, 2- Lê Đức Thọ, 3- Hoàng Văn Hoan (đã chạy đi Trung Quốc để không bị Lê Đức Thọ sát hại), 4- Trần Quốc Hoàn, 5- Nguyễn Duy Trinh. Hai đồng chí Trần Quốc Hoàn, Nguyễn Duy Trinh không đồng ý, phân tích ngày còn Lãnh tụ Hồ Chí Minh được toàn Dân, toàn Quân, toàn Đảng tín nhiệm mới để Bác Hồ làm Chủ tịch Đảng. Lê Duẩn lên làm Chủ tịch Đảng thì mặc nhiên Lê Đức Thọ sẽ làm Tổng Bí thư.<br /><br />* *<br /><br />Đồng chí Trần Quốc Hoàn và đồng chí Nguyễn Duy Trinh sau bị Lê Đức Thọ thù đưa ra khỏi Bộ Chính trị với lý do:<br />- Nguyễn Duy Trinh có con tự động đi nước ngoài.<br />- Trần Quốc Hoàn để Hoàng Văn Hoan đi Tầu.<br />- Chủ trương cho sĩ quan Ngụy và gia đình vượt biển đi Mỹ dù có để lại vàng cho Đảng Cộng sản Việt Nam.<br /><br />* *<br /><br />Lê Duẩn có những thành tích Cách mạng nhất định song công so với tội thì tội lớn hơn nhiều.<br />Chủ tịch Hồ Chí Minh khi mất để lại di chúc không nói gì đến xây dựng Chủ nghĩa xã hội, không nói gì đến theo lý luận Mác - Lênin.<br />Lê Duẩn không thực hiện di chúc Bác Hồ để lại, còn chữa di chúc theo ý mình.<br />Bác Hồ muốn khi chết làm Tang lễ đơn giản đỡ tốn kém, miễn sao thực hiện như Ông Cha ta thường nói “Mồ yên mả đẹp”.<br />Lê Duẩn theo Tây ướp xác Bác Hồ tốn hàng bao nhiêu tỷ, tiền của nhân dân đang còn nghèo. Hàng năm còn phải bảo quản để xác không hỏng rất tốn kém. Người Nga nắm được kỹ thuật ướp xác không huấn luyện cho Việt Nam, giữ bí mật để hàng năm ướp xác thu hàng tỷ đồng.<br />Khi đồng chí Vũ Kỳ công bố di chúc, Lê Duẩn định thi hành kỷ luật anh vì toàn dân lúc ấy mới biết Bác ra đi dặn lại những gì.<br />Lê Duẩn không miễn thuế nông nghiệp cho nông dân, không thực hiện ưu đãi thương binh và thanh niên xung phong nên không động viên được toàn Dân.<br /><br />* *<br /><br />Đảng Cộng sản Việt Nam kể từ năm 1975 đến nay đã kéo lùi đất nước tụt hậu. Do cứ theo Chủ nghĩa xã hội và lý luận Mác – Lênin giáo điều cổ hủ nên Tổ quốc Việt Nam vẫn xếp vào loại nghèo và lạc hậu nhất thế giới, thu nhập bình quân 1 người dân Việt Nam nói rộng rãi là 500 đô la một năm.<br />Các nước láng giềng không theo Chủ nghĩa xã hội, không theo lý luận Mác – Lênin, thu nhập kinh tế 1 năm hơn Việt Nam rất nhiều. Cụ thể: ( Thái Lan thu nhập đầu người 1 năm 2.500 đô la. ( Hàn Quốc thu nhập đầu người 1 năm 11.300 đô la. ( Singapore thu nhập đầu người 1 năm 29.000 đô la. Chưa kể “Con Rồng châu á” Đài Loan.<br />Tại sao Đảng Cộng sản Việt Nam cứ giữ những sai lầm về đường lối để đất nước nghèo và lạc hậu mãi.<br />Không thức thời như các Đảng khác, họ đều thay đổi đường lối khi thấy không thích hợp, không làm ra nhiều sản phẩm, để nhân dân sung sướng hơn.<br />Đảng Cộng sản Nhật Bản tự thấy suy yếu, bầu Quốc Hội mặc dù ứng cử khắp nơi nhưng không trúng cử một ghế nào.<br />Đảng Cộng sản Nhật Bản tự thấy phải họp Đại hội Đảng, thay đổi cương lĩnh mới có thể tồn tại được.<br />Đảng Cộng sản Nhật Bản họp Đại hội có 1.006 đại biểu, trừ 1 còn đều nhất trí với cương lĩnh mới.<br />Cương lĩnh mới của Đảng Cộng sản Nhật Bản gồm 8 điều:<br />1- Từ bỏ mọi mục tiêu đấu tranh cách mạng xã hội chủ nghĩa.<br />2- Thực hiện cải tổ theo đường lối Tư bản chủ nghĩa.<br />3- Từ bỏ những giáo điều của Chủ nghĩa Marx Lênin.<br />4- Không coi mình là lực lượng tiên phong của dân tộc nữa.<br />5- Xã hội Nhật Bản hiện nay không cần làm Cách mạng xã hội chủ nghĩa.<br />6- Các cải tổ dân chủ có thể đi đến thành công trong khuôn khổ một chế độ tư bản.<br />7- ủng hộ chính sách Đa Đảng và bầu cử tự do để lên cầm quyền.<br />8- Thừa nhận chế độ quân chủ lập hiến. Không chủ trương xóa bỏ vai trò của Hoàng gia nữa.<br />Ông Phan Diễn được Đảng Cộng sản Việt Nam cử đi dự Đại hội Đảng Cộng sản Nhật Bản.<br />Tại sao không học tập tinh thần tự nguyện thay đổi cương lĩnh và đường lối của Đảng Cộng sản Nhật Bản ?<br />Tin trên do Thông Tấn xã Việt Nam phát trang 6 Bản tin A hàng ngày Bộ Ngoại giao Văn phòng 7 giờ 30 ngày thứ hai 19/1/2004 theo Đài RFI ngày 18/1/2004.<br />Kết luận<br /><br />Đại hội Đảng lần thứ 10 phải thay đổi đường lối, không xây dựng Chủ nghĩa xã hội ảo tưởng mơ hồ và lý luận Mác – Lênin cổ hũ nữa để đất nước thoát khỏi nghèo và lạc hậu. Dân tộc Việt Nam rất thông minh và lao động cần cù, đường lối đúng Tổ quốc sẽ giàu mạnh.<br /><br />Vấn đề lớn toàn Dân, toàn Quân, toàn Đảng đang quan tâm là Nhân sự. Có ý kiến tổ chức, chỉnh đốn rồi hãy Đại hội. Chỉnh Đảng, vấn đề lớn quá, cần có thời gian.<br /><br />Tôi có ý kiến:<br /><br />1) Những phần tử xấu đã lọt vào Bộ Chính trị phải cho về nghỉ.<br />Lê Đức Anh khai man lý lịch để leo cao, phá hoại đoàn kết trong Đảng.<br />Đại hội 9 đã cùng Đỗ Mười tìm cách đánh đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu. Đỗ Mười không có trình độ, do văn hóa chưa qua lớp 4. Không hiểu xã hội chủ nghĩa cải tạo bừa bãi phá hoại kinh tế Miền Bắc và Miền Nam, cùng Lê Đức Anh bàn nhau đánh đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu.<br />Phạm Văn Trà, đạo đức cách mạng kém, nhân dân đã gọi là “Đại tướng năm nhà, ba vợ”.<br />Trần Đình Hoan cùng Lê Đức Anh tìm cách đánh đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, được Lê Đức Anh thưởng công xếp vào Bộ Chính trị làm Trưởng Ban Tổ chức để dễ sai khiến.<br />Nguyễn Khoa Điềm xu nịnh Lê Đức Anh, làm những thước phim đề cao Lê Đức Anh, đàn áp các báo có ý kiến đấu tranh mạnh với những sai lầm của Lãnh đạo Đảng và Nhà nước.<br />Phan Diễn trấn áp những Đảng viên chân chính đấu tranh mạnh với những sai lầm của Lãnh đạo Đảng như Thượng tướng, nguyên ủy viên Trung ương Đảng Nguyễn Nam Khánh, nguyên Phó Thủ tướng ủy viên Trung ương Đảng Đoàn Duy Thành.<br /><br />2) Các đại biểu được bầu đi dự Đại hội Đảng lần thứ 10 phải tự kê khai tài sản để thiết thực chống tham nhũng.<br /><br />3) Những ai được bầu vào Ban chấp hành Trung ương khóa 10 cũng phải kê khai tài sản để gìn giữ Đảng trong sạch, có tín nhiệm với nhân dân như ngày xưa.<br /><br />Nhân dân bây giờ đang mong: “Bao giờ cho đến ngày xưa”.<br /><br />Trần Đại Sơn<br />51 Hàng Bài – Hà Nội<br />Điện thoại: 8.263700Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-14320560468712418822009-08-06T23:08:00.000-07:002009-08-06T23:10:49.395-07:00No29: Bộ mặt gian manh đểu cáng của Lê Đức Anh và Nguyễn Bắc SơnNhằm hạ bệ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trước Đại hội IX bằng việc gây sức ép nhiều mặt để yêu cầu Ban Chấp hành Trung ương phải kỷ luật Lê Khả Phiêu trước khi tổ chức Đại hội IX (bởi vì Lê Khả Phiêu đã qua mặt cả Lê Đức Anh và Đỗ Mười, có ý định giải tán Ban Cố vấn hay chọc gậy bánh xe, không muốn để cho 2 ông Thái thượng hoàng này lộng quyền đứng trên Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương để sai khiến) nên Lê Đức Anh cùng tay sai là Nguyễn Bắc Son đã tiến hành những hoạt động hết sức mờ ám, bỉ ổi, thâm độc và vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và Điều lệ Đảng. Có thể do nhiều nguyên nhân, nhưng trong đó sự tác động và chỉ huy của Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc ngăn chặn Lê Khả Phiêu tiếp tục ứng cử chức vụ Tổng Bí thư trong Đại hội IX của Đảng. Cũng chính vì vậy mà một kẻ ba phải, thiểu năng về trí tuệ nhưng tham lam và hãnh tiến, có mác là người dân tộc thiểu số đã được Đỗ Mười và Lê Đức Anh chọn làm Tổng Bí thư để dễ bề sai khiến. Còn kẻ phản thầy Trần Đình Hoan đã được thưởng cho chức Trưởng ban Tổ chức Trung ương để còn sắp xếp đệ tử của Đỗ Mười, Lê Đức Anh vào các vị trí then chốt, béo bở của bộ máy Đảng và Nhà nước; Nguyễn Khoa Điềm, đàn em thân tín của Lê Đức Anh đã được bố trí vào Bộ Chính trị để giữ chức Trưởng ban Tưởng Văn hóa Trung ương.<br /><br />Đáng tiếc là hình thức kỷ luật của Trung ương đối với Lê Đức Anh và Đỗ Mười là quá nhẹ (chúng tôi không rõ khiển trách hay cảnh cáo) và không được thông báo rộng rãi trong toàn Đảng để tất cả các đảng viên đều biết. Hơn nữa vấn đề man khai ngày vào Đảng của Lê Đức Anh cho đến nay vẫn chưa được kết luận chính thức. Đây không chỉ là trách nhiệm, khuyết điểm của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa VIII mà còn là trách nhiệm nặng nề của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương khóa IX. Vì vậy vấn đề Đảng tịch của Lê Đức Anh cần được làm sáng tỏ trước khi tổ chức Đại hội X của Đảng để lấy lại lòng tin của đảng viên và các cán bộ cách mạng lão thành đối với Đảng.<br /><br />Điều đáng buồn hơn nữa là tên tay sai đắc lực của Lê Đức Anh là Nguyễn Bắc Son (kẻ đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tổ chức và điều lệ Đảng lại được Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Trần Đình Hoan đạo diễn, bố trí giữ chức Bí thư tỉnh ủy Thái Nguyên để chui tiếp vào Ban chấp hành Trung ương khóa X. Qua đó chúng ta cũng thấy là thế lực của Lê Đức Anh, Đỗ Mười đang còn khá mạnh và tư cách của Nông Đức Mạnh, Trần Đình Hoan lại quá kém. Cũng may là Hội nghị Trung ương 13 đã loại được Trần Đình Hoan, Nguyễn Chí Vịnh, Nguyệt Việt Tiến …khỏi danh sách ứng cử viên Ban chấp hành Trung ương khóa X. Hy vọng Hội nghị Trung ương 15 và Đại hội X sẽ sáng suốt hơn để loại tiếp Nguyễn Bắc Son và cả Nông Đức Mạnh (vì đã quá tuổi 65, năng lực kém, tham lam, hãnh tiến, nhu nhược, thiếu bản lĩnh quyết đoán nên đã để cho Đỗ mười và Lê Đức Anh lộng hành sai khiến, chỉ biết yêu bản thân mình và nhiều tai tiếng như các thư phản ánh và góp ý kiến của các đồng chí nguyên ủy viên Trung ương Đảng các khóa trước đây như Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, Trung tướng Nguyễn Hòa, đồng chí Lê Văn Hiển, đồng chí Nguyễn Trung Tín …, các lão thành cách mạng như đồng chí Nguyễn Văn Thi, Trần Đại Sơn …) ra khỏi danh sách mà Ban chấp hành Trung ương khóa IX giới thiệu cho Đại hội X.<br /><br />Nguyễn Chính Tâm<br />Lão thành Cách mạng, Huy hiệu 60 năm tuổi ĐảngVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-22352443685508112462009-08-06T23:04:00.000-07:002009-08-06T23:08:35.632-07:00No28:Sự “Lộng Giả Thành Chân” trong cuốn “Đại tướng Lê Đức Anh”Sự “Lộng Giả Thành Chân” trong cuốn<br />“Đại tướng Lê Đức Anh” của Khuất Biên Hòa<br /><br />Lê Tùng Minh<br /><br />Đầu tháng 10 năm 2005, trên thị trường sách báo ở Việt Nam, người ta đã thấy bày bán khắp nơi, cuốn sách mang tựa đề là “Đại tướng Lê Đức Anh” của soạn giả Khuất Biên Hòa, với giá tiền là 52.000 VNĐ. Cuốn sách này do nhà xuất bản Quân Đội Nhân Dân ấn hành, được sự chỉ đạo trực tiêp của ông Trưởng Ban Tư Tưởng Văn hóa Trung ương Nguyễn Khoa Điềm.Và cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười viết Lời Tựa (6 trang).<br /><br />Nhiều Cán bộ, Đảng viên, Trí thức, Sinh viên, Học sinh đã tìm đọc để biết sự thật về ông Cai Đồn Điền trở thành Chủ Tịch Nước như thế nào, bởi vì họ đã có nghe phong phanh về chuyện “khai man lý lịch của Lê Đức Anh” (?) Sự thật có đúng như “Thư Tố Cáo” ngày 3-2-2005, của 3 nhà cách mạng lảo thằnh - Phạm Văn Xô ( Hai Xô), nguyên là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục Miền Nam, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, 75 tuổi Đảng (1930-2005).- Trung tướng Đồng Văn Cống (Bảy Cống), nguyên là Phó Ban Thanh tra Quân đội Nhân Dân, 63 tuổi Đảng (1942-2005) - Nguyễn Văn Thi (Năm Thi), nguyên là Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (1942-1946) và là Chủ nhiệm Hậu Cần của Ban Chỉ huy Quân sự Miền thời Chống Mỹ, 63 tuổi Đảng (1942-2005). …<br /><br />Sau khi cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” của Khuất Biên Hòa phát hành , thì một làn song phẩn nộ nổi lên trong hang ngũ lảo thành cách mạng đã hiểu quá rõ về chân tướng của Lê Đức Anh. Vì thế, họ đã yêu cầu Bộ Chính Trị và Ban Chấp Hành Trung ương Đãng khóa IX, cùng Chánh phủ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, phải ra lệnh tịch thu và thiêu ủy cuốn sách “Lộng Giả Thành Chân” vô liêm sĩ đó! Nhưng, Đảng và Chính Quyền CSVN hiện hành vẫn cứ lờ đi … coi như không có chuyện gì xảy ra! Cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” của Khuất Biên Hòa, dày 284 trang (khổ 14,5 x 20,5) vẫn được tiếp tục quảng bá khắp nước (!?)<br /><br />*<br /><br />Trước khi vạch trần sự “Lộng Giả Thành Chân” trong cuốn “Đại tướng Lê Đức Anh” do Khuất Biên Hòa biên soạn, chúng ta hãy xem ông cựu Tổng Bí Thư Đổ Mười trổ tài cầm bút, viết Lời Tựa , để “nâng bi” Lê Dức Anh như thế nao?<br /><br />Từ năm 1945 đến 1978 (33 năm lien tục) trải qua các thời kỳ lịch sử - Kháng chiến chống Pháp (1945-1954(, xây dựng xã hội chủ nghĩa miền Bắc (1955-1975) và Chống Mỹ cứu nước tại chiến trường Miền Nam,(1960-1975) - Đỗ Mười chưa hề quen biết Lê Đức Anh! Do đó, mở đầu Lời Tựa, Đỗ Mười phải rào trước đón sau, thừa nhận sự thật rằng: “Tôi gặp anh Lê Đức Anh lần đầu tiên tại Campuchia năm 1979.”(sách đã dẫn, trang 5)<br /><br />Năm 1979, Đổ Mười đang giữ chức Phó Thủ tướng, được Đảng và Nhà nước CSVN cử sang Canpuchia để “giúp bạn về kinh tế” (nguyên văn của Đổ Mười). Còn Lê Đức Anh lúc đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng, thuộc Bộ Tổng Tư Lệnh QĐBDVN, được Đảng và Nhà nước CSVN cử sang “phụ trách Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia” Nói cho chính xác hơn, như Lê Đức Anh tự kể: “Hồi đó ở đất bạn Campuchia ta có hai khối Quân tình nguyện là lực lượng quân đội và Đoàn chuyên gia. Mỗi bên có một Đảng bộ. Tôi chỉ huy phụ trách chung.” (Sách đã dẫn, trang 171).<br /><br />Thật ra, viết Lời Tựa cho một tác phẩm về khoa học xã hội, hay gay khoa học nhân văn nào đó, đâu cần phải đã quen nhau từ trước, mà chỉ cần có đủ trình độ cảm nhận, đánh giá và tổng luận được nội dung căn bản của tác phầm đó, để viết Lời Tựa cho đúng nghĩa là Lời Tựa! Trong trường hợp viết Lời Tựa cho cuôn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”, tất nhiên phải đòi hỏi một người có tầm cở chính trị-quân sự ngang hay cao hơn Lê Đức Anh, thì mới có thể nâng cao giá trị của cuốn sách - Nếu cuốn sách đó phản ánh đúng sự thật! Bởi vậy, người viết Lời Tựa phải thận trọng cả lời văn và nội dung luận xét khi viết. Vậy, ông cựu Tổng Bí Thư có làm đúng chức trách của người viết Lời Tựa hay không?<br /><br />Suốt trong 6 trang Lời Tựa (từ trang 5 đến trang 10), ông Đỗ Mười không có một dòng nào, đúng là không có một dòng nào đề cập đến nội dung của cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”. Tại sao? Tại vì ông không biết cách viết Lời Tựa cho một cuốn sách? Hay là ông Đỗ Mười cố ý tránh né “những sự thật về lai lịch của Lê Đức Anh” mà bản than ông cựu Tổng Bí thư vẫn nghi ngờ?<br /><br />Cho nên, có phải ông Đỗ Mười thầm muốn cho người đọc biết rằng: Ông chỉ chịu trách nhiệm về những gì ông viết trong Lời Tựa, từ sau Đại Hội VI (1986) đến nay, như ông đã viết: “Đến nhiệm kỳ Đại Hội Đảng lần thứ VI, sau khi anh Phạm Hùng mất, tôi thay anh Phạm Hùng làm Thủ tướng Chính phủ. Lúc bấy giờ anh Lê Đức Anh giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng. Từ đây, giữa tôi và anh Lê Đức Anh có điều kiện làm việc gần nhau” (sách đã dẫn, trang 5)<br /><br />Ông Đỗ Mười đã viết những gì trong Lời Tựa ?<br /><br />Dưới đây là 3 điểm chính trong Lời Tựa: mà ông cựu Tổng Bí thư đã viết, có thể khái quát như sau:<br /><br />1- Lê Đúc Anh là người biết thích ứng với tình hình mới, như sau khi đã hoàn tất việc rút hết “Quân tình nguyẹn Việt Nam” ở Campuchia về nước(26-9-1989), ông Đổ Mười đã viết rằng: “Anh Lê Đức Anh đã trao đổi với tôi kế hoạch điều chỉnh chiến lược bố trí phòng thủ đất nước trong tình hình mới, phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của đất nước mà vẫn bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”(sách đã dẫn, trang 6-7).<br /><br />2- Hoặc là trong tình hình khó khăn về kinh tề , nhưng như Đỗ Mười đã viết: “tôi và anh Lê Đức Anh đã đề nghị và được Bộ Chính trị đồng ý chủ trương khó gì thì khó nhưng phải quan tâm đến trang bị cho quân đội, xây dựng công nghiệp quốc phòng và chăm lo cải thiện đời sống của lực lượng vũ trang.” (sách đã dẫn, trang 7)<br /><br />3- Hay sau Đại hội VII (1991) , Đỗ Mười viết: “Tổng Bí thư (Đỗ Mười), Chủ tịch nước (Lê Đức Anh), Thủ tướng Chính phủ (Võ Văn Kiệt). Ba chúng tôi về quan điểm đường lối, đối nội, đối ngoại trên các lĩnh vực nói chung đều nhất trí.” (sách đã dẫn, trang 9)<br /><br />Cuối cùng, Đổ Mười đã đề cao Lê Đức Anh eằng: “quan điểm giai cấp rất vững và rõ ràng…Tôi cho rằng anh Lê Đức Anh là một trong những nhà chính trị tầm cở, nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta.”(sách đã dẫn, trang 10).<br /><br />Rõ ràng, Đỗ Mười không phải làm chức trách của người viết Lời Tựa cho cuốn sách, mà lấy tư cách cựu Tổng Bí thư để làm cái lá chắn, để đỡ những mủi tên phê phán đang bắn thẳng vào Lê Đức Anh, đồng thời để che đậy những việc làm sai lầm nghiêm trọng của Lê Đức Anh, cũng là che đậy những tội lỗi cho chính bản thân của ông ta! (Theo dư luận trong hang ngũ binh sĩ Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, thì ông Đỗ Mưởi đã cùng Lê Đức Anh làm “công việc sưu tầm các ông Phật bằng vàng trên khắp nước Campuchia?)<br /><br />*<br /><br />Vậy nội dung cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” do Khuất Biên Hòa biên soạn có vấn đề gì? Tại sao chúng tôi dám kết luận là “Lộng Giả Thành Chan” ?<br /><br />Để có những tài liệu cụ thể, xác thực, nhằm chứng minh sự “Lông Giả Thành Chân” trong cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”, chúng tôi đã căn cứ vào kết quả thu thập tài liệu, từ trong hang ngủ cán bộ cách mạng lảo thành đã từng biết rõ về Lê Đức Anh, từ các tướng tá trong Quân đội Nhân dân đã từng chiến đấu và làm việc cùng Lê Đức Anh (trên chiến trường Việt Nam cũng như chiến trường Campuchia), từ nguồn Hồ sơ Cán bộ Cao cấp của Ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN… Từ những nguồn tư liệu đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu,đối chiếu, so sánh và phân tích theo phương pháp khoa học lịch sử, xem đâu là thật, đâu là gia? Trên cơ sở ấy, chúng tôi mới đề ra những luận cứ, trên tinh thần khách quan, không thiên vị, để phê phán, nhằm mục đích : Đem Sự Thật trả lại cho Sự Thật!<br /><br />Nội dung cuốn sách này, gồm có 5 phần. Chúng tôi sẽ đưa ra sự Lộng Giả Thành Chân của từng phần, để cho độc giả dễ theo dõi…<br /><br />I- Tuổi thơ và cách mạng-Từ Trị Thiên tới Lộc Ninh. (từ trang 11 đến trang 33). Sự “Lông Giả Thành Chân”trong phần này, chủ yếu là biến việc khai man lý lịch trở thành lý lịch trong sạch (!)<br /><br />1- Về năm gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, ông Lê Đúc Anh kể cho Khuất Biên Hòa viết rằng: “…năm 1937 chính thức tham gia hoạt động cách mạng. Đến dịp kỹ niệm Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1938 khi hai người bạn cùng làng của ông là anh Viết (tức Hoàng Viễn) và anh Hồ Nguyên chính thức giới thiệu ông vào Đảng.” “Nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười Nga năm đó ông được trở thành đảng viên chính thức.” (sách đã dẫn, trang 16 và 18)<br /><br />Tuy nhiên, trong Hồ Sơ Lý Lịch lưu tại Phòng Lưu Trử của Ban Tổ chức Trung ương Đảng CSVN ở Hànội, đang có 2 bản tóm tắt lý lịch của Lê Đức Anh, ghi ngày vào Đảng có mâu thuẫn với lời kể của ông, được Khuất Biên Hòa viết ra trung sách “Đại tướng Lê Đức Anh” ?:<br /><br /> 1- Bản tóm tắt lý lịch của Lê Đức Anh, khai vào tháng 11-1976 (khi tham gia Đại hội Đảng lần thứ IV, và lần đầu tiên được bầu ; làm ủy viên Trung ương Đảng khóa IV), Lê Đức Anh đã khai như sau: Gia nhập Đảng tháng 7-1945, và tháng chính thức là 8-1945. Đối chiếu với trong sách, đã dẫn ra ở trên, là hoàn toàn mâu thuẫn! Năm 1945 so với năm 1938 cách nhau đến 7 năm ?<br /> 2- Bản tóm tắt lý lịch của Lê Đức Anh khai vào tháng 8-1986 (khi tham gia Đại hội Đảng lần thứ VI, và ông đã được cử vào Bộ Chính trị khóa VI). Lê Đức Anh đã khai ngày vào Đảng là 30-5-1938, và ngày chính thức là ngày 5-10-1938. Đối chiếu vói sách đã dẫn ở trên thì thống nhất về năm (1938). Nhưng về ngày thì khác xa ?<br /><br />Theo ông Nguyễn Văn Thi (tức Năm Thi), nguyên là Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (Bình Dương ngày nay), trong thời gian 1942-1945, thì năm 1945 Lê Đức Anh mới được Đảng bộ Thủ Dầu Một kết nạp vào Đảng Cộng sản Đọng Dương (Theo “Kiến nghị thu hồi và tiêu hủy cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”của Khuất Biên Hòa”, đề ngày 7-11-2005, của ông Nguyễn Văn Thi, nguyên Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (1942-1945), nguyên Chủ nhiệm Hậu Cần của Bộ Chỉ huy Quân sự Miền Nam thời chống Mỹ (1960-1975). Hiện đã về hưu, ở Thành phố Sàigòn, tại nhà số 20B 885 cư xá Nguyễn Trung Trực, Đường 3/2 Quận 10).<br /><br />Người được kết nạp vào Đảng năm 1945, không thể ngang bằng về vị trí chính trị trong Đảng đối với người gia nhập Đảng ở năm 1938! Bởi thế, Lê Đức Anh mới chọn năm 1938 để được cử vào Ban Chấp hành Trung Ương khóa Iv một cách thuận lợi. Bởi vì, đảng viên năm 1938 được xếp vào hang tiền bối cách mạng của Đảng! Hơn nửa, Lê Đức Anh khai gia nhập Đảng vào năm 1938, thì tổ chức không dễ gì thẩm tra? (Thật ra Truởng Ban Tổ chức trong thời gian 1976-1986 - thời lên như diều gặp gió của Lê Đức Anh - vẫn là Lê Đức Thọ, người anh đở đầu của Lê Đức Anh. Do đó, bao nhiêu lá thư tố cáo Lê Đức Anh đều bị Sáu Búa (tức Lê Đưc Thọ) đều bị ném vào xọt rác!)<br /><br />2- Về thành phần bản than và thơi làm cai đồn điền của Pháp, Lê Đức Anh đã kể cho Khuất Biên Hòa ghi lại như sau: Khi vào sống ở Đà Lạt (1939) “ông quyết định đi làm lao công (hồi đó chủ Tây gọi là cu ly) tại khu nhà nghỉ mát tại Sở Nam kỳ.” )sách đã dẫn, trang 19) Sau đó, Lê Đức Anh học làm đồ nguội (ba tê, xúc xích, dăm bong) với thằng Tây tên Bê-Găng… Khuất Biên Hòa ghi tiếp rằng: “Thấy đồ ăn nguội ông làm ra rất ngon, một vị chủ Tây khác đã đến thuê ông xuống đồn điền của nó làm đồ ăn nguội. Do đó, đầu năm 1942 ông rời Đà Lạt xuống đồn điền cao su Lộc Ninh.” “Giám đốc điều hành đồn điền tên là Đờ La-Lan… yêu cầu ông làm thêm giờ và cho thêm người giúp việc đặng làm ra nhiều đồ nguội, để nó bán cho các đồn điền lân cận và mang về Sàigòn làm quà…Như vậy, mỗi tháng ông có thu nhập đều đặn là 45 đồng.” (sách đã dẫn, trang 20-21). Năm 1942, lương 45 đồng/tháng là lương thuộc công chức hạng trung cấp ?.<br /><br />Vì vậy, trong bản lý lịch tóm tắt vào tháng 11-1976, nộp cho Ban Tổ chức Trung ương Đảng , để kiểm tra tư cách tham gia Đại hội Đảng lần thứ IV, Lê Đức Anh khai: Thành phần bản thân là Viên Chức. Nhưng đến Đại hội Đảng lần thứ VI (8-1986), để được dễ dàng thong qua tư cách Ủy viên Bộ Chính tri, nên Lê Đức Anh khai lãi như sau: Thành phần bản than là Công Nhân.<br /><br />Theo Chủ nghỉa Thành phần trong chính sách cán bộ của Tổ chức Đảng CSVN, thì thành phần công nhân là thanh phần căn bản nhất, đóng vai trò lãnh đạo các thành phần khác! Còn thành phần viên chức là thành phần Tiểu tư sản, lập trường luôn dao động, cần phải được rèn luyện và thử thách nhiều! Vì thế, chúng ta dễ hiểu vì sao L: ê Đức Ang chon thành phần công nhân, chối bỏ thành phần viên chức!<br /><br />Trong thực tế, ngay thời làm việc ở “Công ty trồng cao su vùng nhiệt đới Lộc Ninh”-thường gọi là “Đồn điền Cao su Lộc Ninh”, ông Lê Đức Anh cũng “Lộng Giả T hành Chân”! Bởi vì, theo lời kể lại của nhiều lão phu đồn điền cao su Lộc Ninh (nay gọi là công nhân) cho biết: Lúc đó, Lê Đức Anh có biệt danh là “Cai Lé” (vì bị chột một con mắt ). Nói cho đúng, lúc đó (1942-1945) Lê Đức Anh là Chef des Cơpératives (Đứng đầu bộ phận chế biến thực phẩm) dưới quyền của tên De Lalant, một sỉ quan 2è Bureau (Đệ nhị phòng Pháp) là Giám đốc Công ty trồng cao su nhiệt đới Lộc Ninh. Và lương của Lê Dức Anh ngang với lương của Chef de Camp của Pháp (Tham khảo bức thư gửi các cấp Trung ương Đảng, đề ngày 1-2-2005, của 3 vị lãi thành cách mạng: Phạm Văn Xô, Đồng Văn Cống và Nguyễn Văn Thi)<br /><br />II- Đánh giặc Pháp ở miền Đông Nam bộ, từ trang 34 đến trang 52. Sự “Lộng Giả Thành Chân” trong phần này, tập trung vào hai chủ điểm, như sau:<br /><br />1- Dấu diếm tội “tìm cớ để cho kẻ thù của dạn tộc” có cơ hội trốn thoát (?) như lời tố cáo của các ông lão thành cách mâng ở miền Nam, rằng: “Trong cuộc đảo chánh Nhật-Pháp ngày 9-3-1945,quân Nhật bắt được toàn quyền Pháp ở Đông Dương là Decoux, và Thống đốc Nam kỳ là Hoffen tại Sàigòn, sau đó đem về giam tại nhà De Lalant, chủ đồn điền cao su Lộc Ninh. Đồng chí Năm Thi đượ giao nhiệm vụ dẫn một đội vũ trang lên Lộc Ninh tìm cách bắt sống hoặc tiêu diệt tiểu đội bảo vệ của Nhật, rồi tổ chức dẫn độ Decoux và đổng bọn lên Buôn Mê Thuột, để đưa ra Bắc chuyển giao cho Trung ương. Đồng chí Năm Thi đã bàn bạc với Lê Đức Anh và nhất trí lên kế hoạch hành động. Nhưng đêm hôm sau, Lê Đức Anh bất ngờ hủy bỏ kế hoạch, viện cớ sẽ bị quân Nhật kéo lên khủng bố, phá vở cơ sở của y.” Kế hoạch bắt Decoux và đồng bọ không thành, nên Tỉnh ủy Thủ Dầu Một chủ trương chặn đường quân Nhật đưa Decoux và đồng bọ về Sàigòn trao cho quân Anh, bằng cách “đốn cây cản đường từ Lộc Ninh về Hớn Quảng rồi phục kích tiêu diệt lực lượng áp giải để bắt bọn Decoux, đơn vị của Lê Đức Anh đã được bổ sung thêm vũ khí để thực hiện nhiệm vụ này. Y đã nhận lệnh nhưng đã tránh né, cử người khác làm thay. Tên này đã lệnh cho tự vệ dọn dẹp cây và mở đường cho quân Nhật đưa Decoux, Hoffen và đồng bọn về Sàigòn an toàn.” (Trích trong thư gửi cho các cấp Trung ương Đảng CSVN, để ngày 3-2-2005, của ba ông Nguyễn Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Thi).<br /><br />Theo sự tiết lộ của ông Võ Xuân Nhâm (Sáu Nhâm, còn có biệt danh là Sáu Tối Trời(, nguyên Đặc phái viên của Ban Tình báo Nam bộ, trong thời kháng chiến chống Pháp (1945-1954), thì trong Hồ sơ của phòng Phản gián/Ban Tình báo Nam bộ, vào năm 1947, những cán bộ đả bị tình nghi có lien hệ với 3ẻ Bureau Pháp là Lê Văn Viễn (Bảy Viễn), Trịnh Khánh Vàng, và Cai Lé Lê Đức Anh (?)<br /><br />Nếu Lê Đức Anh không cố tình làm hỏng kế hoạch phối hợp hành động cùng ông Năm Thi, để bắt Decoux và đồng bọn, thì tại sao trong cuốn sách nói về quá trình cách mạng của Lê Đức Anh, in vào tháng 9-2005 (nghĩa là thư tố cáo vừa đề cập, đã đến tay Bô Chính Tri từ tháng 2-2005, cũng có nghỉa là Lê Đức Anh đã nghe được lời tố cáo của các nhà lão thành cách mạng ở miền Nam, đều là cấp trên của ông hồi 1945, trước khi cuốn sách đưa đi in đến 7 tháng ), thế mà không có một lời giải thích nào, trong suốt Phần II của cuốn sách?.<br /><br />Đây chính là một nghi án chính trị rất nghiêm trọng đối với Lê Đức Anh!<br /><br />2- Thổi phồng vai trò và tài năng “đánh giặc Pháp ở miền Đông Nam bộ”, nhằm tô vẻ cho Lê Đức Anh ở thời kỳ sau!<br />Sự thật này, đã được ghi rõ ràng như sau: “Đội võ trang của Lê Đức Anh vẫn đứng chân hoạt động ở vùng Bến Cát, Chơn Thành thuộc tỉnh Thủ Dầu Một, ngày đêm đánh với quân Pháp… Khi ông Vũ Đức từ miền Bắc vào lập căn cứ ở vùng cao su Thuận Lợi , mời ông Lê Đức Anh sang đề nghị cho quân ra chặn trước ở cầu Phước Hòa, còn bản doanh của ông Đức thì ở phía sau, chỗ đường 14.””Binh đoàn Lơ-cò-Léc của bọn Pháp rất mạnh… mà phải chùn lại khi đụng đầu với đơn vị của ông Lê Đức Anh tại chiến khu Thuận Lợi…Đơn vị (của Lê Đức Anh) đã bẻ gẩy, làm thất bại tất cả các đợt tiến công của quân địch….để cho toàn bộ sở chỉ huy của ông Vũ Đức `rút về địa bàn miền Tây Nam bộ an toàn…” (sách đã dẫn, các trang 35, 36, 37)<br /><br />Trong thời gian này, ông Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) là ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, đồng thời là Chi đội phó kiêm Tham mưu trưởng Chi đội I của tỉnh Thủ Dầu Một, và L: ê Đức Anh mới chỉ là Chính Tri viên của Đại Đội 3 thuộc Chi Đội I (Lê Đức Anh cũng thừa nhận chức vụ này, sách đã dẫn, trang 41).<br /><br />Nhưng, sự thật về vai trò của Lê Đức Anh trong sự kiện lịch sử về chiến khu Thuận Lợi, thì hoàn toàn không đúng như vậy! Sụ thật đã được vạch trần như sau: “Để chuẩn bị cơ sở vật chất cho cuộc kháng chiến, Đảng bộ miền Đông Nam bộ chủ trương di chuyển máy móc, thiết bị, vật tư, lương thực của các đồn điền cao su và các địa phương miền Đông Nam bộ về khu vực Thuận Lợi (Phú Riềng cũ) thuộc công ty cao su Dầu Tiếng, là địa bàn ở sâu trong địa phương ta.Trong khi quân Pháp tập kích Thuận Lợi, nhưng Lê Đức Anh và lực lượng võ trang thuộc quyền của y đang đóng trên đất Thuận Lợi, đã không tổ chức chiến đấu đánh trả quân địch mà bỏ chạy dài về Cổng Xanh, chiến khu Đ. Do đó, Thuận Lợi đã bị quân Pháp đốt cháy toàn bộ kho tang, nhà cửa trong 3 ngày đêm.” (Xem thư tố cáo, ngày 3-2-2005, của ba ông Nguyễn Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Văn Thi)<br /><br />Và…sau đây lại là một sự bịa đặt nửa của Lê Đức Anh, khi ơng ta kể cho Khuất Biên Hòa ghi rằng: “Một lần, ông Bình đã cử hai ông Phạm Thiều và Huỳnh Văn Nghệ lên chiêc tàu chiến của Pháp trên song Đồng Nai để đàm phán. Tôi (Lê Đức Anh) đã gặp ông (Nguyễn Bình) và có ý kiến rằng không nên làm như vậy, chỉ có cấp Chính phủ mới đủ tư cách đàm phán với quân Pháp… Có lẻ vì tôi (Lê Đức Anh) phản ứng khá gay gắt nên ông (Nguyễn Bình) giận và nảy ra ý định bắt va “trị” tôi.Khi anh Nguyễn Văn Hội hớt hãi đến báo cho tôi tin đó, tôi liền mượn chiếc xe có hai bò kéo của một ông già, vượt đoạn đường rừng lên thằng chỗ ông Bình ở Long An, nói: Có phải anh giận tôi vì tôi gàn anh về chuyện đàm phán với quân Pháp? Ông không nói gì về việc này mà chỉ mời tôi ở lại ăn cơm rồi trở về đơn vị.” (sách đã dẫn, trang 39-40).<br /><br />[Chuyên đi xe bò kéo…rất vô lý mà Lê Đức Anh cũng nói được (!?) Từ Chiến khu Đ về Long An , phải vượt qua những cánh rừng hoang, vượt qua mấy con song, làm sao có đường mòn để xe bò cgạy? và làm thế nào có đó để chở xe bò qua song? Lê Đức Anh chỉ gạt con nít và những người không biết mà thôi!]<br /><br />Theo nhiều cán bộ quân sự chỉ huy cấp Chi Đoi ở chiến trường miền Đông Nma bộ trung hai năm 1945-1946 (như Nguyễn Văn Thi Chính trị viên Chi đội 1, Lê Văn Chẳng Chi đội trưởng Chi đội 2, Ngô Tấn Lực Chi đội trưởng Chi đội 3, Huỳnh Văn Trí Chi đội trưởng Chi đội 4, Nguyễn Văn Hoành Chi đội trưởng Chi đội 21, Lâm Văn Đức Chi đội trưởng Chi đội 15 v. v…) đều biết rằng: Khi nghe tin Tư lệnh Nguyễn Bình có ý định xử tử Lê Đức Anh vì tội chưa đánh giặc đã bỏ chạy, để cho quân Pháp thiêu hủy toàn bộ tài sản của cách mạng và nhân dân tại chiến khu Thuận Lợi, Lê Đức Anh liền dẫn số quân dưới quyền, bỏ trốn về vùng Bắc Bến Cát.<br /><br />Vậy mà Lê Đức Anh vẫn tiếp tục bịa chuyện, đánh tráo sự thật lịch sử, như sau: “Cuối năm 1948, ông Lê Đức Anh được điều về làm Tham mưu trưởng khu 7, Tư lệnh khu 7 là tướng Nguyễn Bình.”(sách đã dẫn, trang46)<br /><br />Sự thật là, năm 1948, tướng Nguyễn Bình đã làm Tư lệnh Quân sự Nam bộ. Và Lê Văn Viễn (tức Bảy Viển-Bình Xuyên) nguyên Chi đội trưởng Chi đội 9 kiêm Khu bộ phó khu 7, đã được tướng Nguyễn Bình đưa lên giữ chức Khu bộ trưởng khu 7, Nguyễn Văn Trấn (tức Bảy Trấn, tức Hai Cù Nèo) làm Chính ủy khu 7, Huỳnh Văn Nghệ (tức Tám Nghệ) làm Khu bộ phó khu 7 kiêm Tham mưu trưởng. (căn cứ theo lời kể của những cán bộ lão thành, đã từng cọng tác ở quân khu 7, trong những năm 1946-1949, do phòng lịch sử quân sự của quân khu 7 ghi âm để làm tài liệu.) Sau khi Bảy Viễn bỏ chiến khu về hợp tác với Pháp (1949), thì quân khu 7 do Huỳnh Văn Nghệ làm khu bô trưởng…Còn ông Lê Đức Anh có làm Tham mưu trưởng quân khu 7 hay không, chúng tôi không biết?<br /><br />Tại sao Lê Đức Anh dám bịa chuyện trắng trôn như vậy? Có phải Lê Đức Anh nghĩ rằng những chứng nhân lịch sữ như Nguyễn Bình, Nguyễn Văn Trấn, Huỳnh Văn Nghệ … đã chết hết rổi, và với tư cách “Đại tướng Chủ tịch nước” Lê Đức Anh chủ quan tin rằng mọi người sẽ tin lời nói của ông hơn là những lời nói của người khác? Ông Lê Đức Anh đã lầm! Không ai có thể che dấu được sự thật lịch sử! Sớm hay muộn những điều dối trả sẽ được phơi bày dưới ánh sang cua mặt trời chân lý!<br /><br />III- Trên chiến trường “Đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào”, từ trang 53 đến trang 154. Sự :Lộng Giả Thành Chân” ở phần này là cố tạo ra cái gọi là “sang suốt hơn cấp trên trong những tình hống gay go nhất” - Phần này có thể coi ;là phần căn bản, quan trọng nhất của cuốn sách, vỉ nhờ giai đoạn nảy (1963-1975) mà : ê Đức Anh được thăng vượt cấp, từ Đại tá lên Trung tướng … và mở ra thời kỳ “lên ngôi Chủ tịch nước” vào hơn một thập niên sau này , theo con đường :phi chính thường” của lịch sử Đảng CSVN!<br /><br />Năm 1955, tập kết ra bắc, Lê Đức Anh được làm Cục phó Cục tác chiến/Bộ Tổng Tham mưu…Và đến năm 1963 ông được thăng chức Phó Tổng tham mưu trưởng (sách đã dẫn, trang 62- N Nhưng ông LĐA không hề cho biết cấp bậc là Trung tá hay Đại tá?). Cuối năm 1963, Lê Đức Anh được cử về chiến trường B2 (Nam bộ) và được giữ chức Tham mưu trưởng Bộ Chỉ huy Miền (sách đã dẫn, trang 65) Sau chiến dịch Bình Giẳ - Đồng Xoài (1964-1965). Lê Đức Anh tự hào kể rằng:<br /><br />“Cuối năm 1966, ông được Trung ương gọi ra miền Bắc để báo cáo tình hình mọi mặt của chiến trường miền Nam.” (sách đã dẫn, trang 72)<br /><br />Thật là khó hiểu!<br /><br />Nhiều cán bộ lãnh đạo Trung Ương Cục như: Đai tướng Nguyễn Chí Thanh, Bí thư Trung ương Cục (vào B2 từ cuối 1964, cùng với các tướng Lê Trọng Tấn, Nguyễn Hòa, Hoàng Cầm, Trần Độ), Nguyễ Văn Linh (nguyên Bí thư Trung ương cục trước năm 1964, nay là Phó Bí thư Trung ương cục ), Võ Văn Kiệt, ủy viên trung ương cục kiêm Bí thư Khu ũy Sàigòn-Gia Đi6nh: Mai Chí Thọ, ủy viên trung ương cục kiêm Ní thư Khu ủy Miền Đông Nam Bộ:Trung tướng Trần Văn Trà,Tư lệnh Bộ Chỉ huy Miền V.v… Đó là những cán bộ đã bám trụ từ sau năm 1954 và đã từng lăn lốc với chiến trường B2, nhiều năm trước khi Lê Đức Anh vào (cuối 1963) Họ năm chắc và hiểu biết tình hình hơn Lê Đức Anh nhiều!<br /><br />Vậy mà Trung ương Đảng không gọi ai trong số cán bộ lãnh đạo có thẩm quyền báo cáo nhất của Trung ương Cục, mà lại gọi một viên Thượng tá Lê Đức Anh trực tiếp ra báo cáo? Ông Hồ Chí Minh và Lê Duẫn đã lẩm cảm rồi hay sao? Các ông ấy làm việc đến không có nguyên tắc tổ chức như vậy hay sao? Không bao giớ! Chắc chắn ông Lê Đức Anh cường điệu và đề cao mình, mà không lo có`người “vạch áo xem lưng”, bởi vì những chứng nhân thời gian này, những người hiểu rõ sự việc đã chết hết rồi (?)<br /><br />Nhưng, xui xẻo cho Lê Đức Anh, trong kho lưu trử Hồ Sơ trong thời kỳ chống Mỹ, tại Cục Lưu Trữ Trung Ương (Hànội), “cộng tác viên” của chúng tôi đã tìm được bức điẹn tín của Bộ Chính Trị gửi cho Trung ương cục, về việc cho người ra Hànội báo cáo tình hình chiến trường B2, sau chiến thắng Đờng Xoài, như sau: “Hànội ngày 5 tháng 9 năm 1966. Bộ Chính Trị gửi Trung ương Cục vá Quân ủy Miền stop. Bác Hồ và đ/c Lê Duẫn cần nghe các đ/c trực tiếp báo cáo tình hìnhcủa chiến trường B2, trước khi bước sang năm 1967 stop. Trưong Chinh ký stop.”<br /><br />Từ nội dung bức điện báo này, chúng ta có thể suy luận rằng: Có lể vìa các cán bộ lãnh đạo của Trung ương cục đều bận lo chuẫn bị cho chiến dịch Tổng công kích vào Tết Mậu Thân 1968, nên chỉ viết báo cáo và cử Lê Đức Anh, là người chưa trực tiếp nắm cơ sở, đi ra Hànội và thay mặt Trung ương Cục để báo cáo với ông Hồ Chí Minh và Lê Duẫn ?<br /><br />Khi Liên quân Mỹ-VNCH mở chiến dịch Junction-city, bắt đầu vào ngày 1-2-1967, nhằm triệt hạ Chiến khu Dương Minh Chau (thuộc huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh), để tiêu diệt các cơ quan đầu nảo của Việt Cộng (Trung ương cục, Bộ Chỉ huy Miền và cơ quant trung ương MTDTGPMNVN), thì Lê Đức Anh khoe khoang như sau:<br /><br />Trong cuộc họp giữa Trung ương cục và Bộ Chỉ huy Miền, để bàn về việc nên rút khỏi chiến khu Dương Minh Châu hay bám trụ chống giặc? Trong khi mọi người còn đang phân vân, chua có ý kiến quyết định, thì Lê Đức Anh đề xuất ý kiến rằng: “Trung ương cục và Bộ Chỉ huy Miền cần phải di chuyển ra khỏi tầm phi pháo của chúng để bảo đảm an toàn, nhưng cũng chỉ những người, những tổ chức thật cần thiết, và phải gọn nhẹ; còn cơ bẳn là ở tại chỗ, chúng ta sẽ tổ chức đánh địch bằng phương thức mới……Bộ tư lệnh Miền và Trung ương cục nhất trí với đề xuất này và giao cho ông việc tổ chức lực lượng đánh địch tại chỗ. Ông Anh đảm nhiệm cương vị “Tỉnh Đội Trưởng”…” (sách đã dẫn, các trang 74-75-76)<br /><br />Vô hình trung, độc giả không biết gì về lịch sử chiến tranh Việt-Mỹ trong thời kỳ này, đọc các dòng chữ trên đây, đều có thể ngộ nhận rằng: “Chính ông Lê Đức Anh đã chỉ huy đánh bại chiến dịch Junction-City của Liên quân Mỹ-VNCH” (!?)<br /><br />Thật ra, bất cứ một cán bộ Việt Cộng nào biết suy nghĩ vêề “tính hợp lý” (tính logic) của câu chuyện, thì không một ai tin vào lời kể của Lê Đức Anh cả! Đừng nói tới vai trò lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương Cục, như các ông Nguyễn Văn Linh, Nguyễn Văn Đáng, Phạm Văn Xô, Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ…). Hãy kể tới các cán bộ lãnh đâo của Bộ Chỉ huy Miền, như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Trung tướng Trần Văn Trà, trung tướng L:ê Trọng Tấn, Thiếu tướng Nguyễn Hòa, Thiếu tướng Trần Độ, Thiếu tướng Hoàng Cầm…Những vị ấy không ai hiểu được tình thế hiểm nguy trước cuộc càn quét của Liên quân Mỹ-VNCH hay sao? Không có vị nào có khả năng chỉ huy tổ chức chống sự càn quét của Mỹ hay sao? Hay cả bôn họ đều sợ, ngoại trừ Kê Đức Anh?<br /><br />Vì rằng, để tiến hành chiến dịch Junction-City, riêng quân lực của Hoa kỳ đã tung vào cuộc chiến với một lực lượng khổng lồ: 45.000 quân, 1.200 xe tăng và thiết giáp, 250 khẫu pháo, 600 máy bay chiến đấu và vận tải; trong đó có Sư đoàn bộ binh số 1 “Anh cả đỏ”, Sư đoàn 25 “Tia chớp nhiệt đới”, Sư đoàn bộ binh số 9, Lử đoàn dù 173,Lử đoàn bộ binh nhẹ 196, Lử đoàn kỵ binh thiết giáp số 11: cùng 2 chiên đoàn của quân lực VNCH. Ngoài ra, Hoa Kỳ còn sử dũng máy bay B.52 ném bom hủy diệt từng vùng để yểm trợ các cuộc hành quân “tìm diệt”! – (Theo bản tin tổng hợp của AFP, tháng 4-1967)<br /><br />Thực tế đó, toàn bộ các tướng trong Bộ Chỉ huy Miền, chẵng lẻ đều hoảng sợ đến nổi không biết nên làm thế nào, để cho Lê Đức chỉ huy hay sao? Nếu Lê Đức Anh tài ba như thế, tâi sao sau đó, ông ta vẫn chưa được thăng chức?<br /><br />Cứ cái đà cường điệu như thế, trong cuộc Tổng công kích năm Mậu Thân 1968, sau đợt I (31/1 đến 25/2/1968), Lê Đức Anh kể rằng: “tôi có gặp anh Trần Bạch Đằng (anh Trần Bạch Đằng cung ở Tiền phương II với anh Võ Văn Kiệt) anh Linh cũng đang có mặt tại đây. Tôi đề xuất không nên mở đợt 2 đánh vào nội đô nửa vì không còn yếu tố bí mật bất ngờ.” Và sau khi đợt II kết thúc (5/5 đến 12/8/1968) Lê Đức Anh nói: “tôi đề nghi dứt khoát thôi, rút ra. Dân chỉ giúp đỡ chớ không “nổi dậy” thì quân ta không ở nửa, rút ra!” (sách đã dẩn, trang 90-91).<br /><br />Theo biên bản Tổng kết Bài học Thành công và Thất bại của cuộc Tổng tấn công và Nỗi dậy năm 1968 của cuộc họp liên tịch mở rộng giữa Trung ương cục với Quân ủy Miền, từ ngày 15/12 đến 20/12/1971 ( tại căn cứ địa của Trung ương cục trên đất Campuchia, trong một khu rừng bên dỏng sông Mékong, thuộc vùng đát của tỉnh Stung-Treng), thì không thấy có ý kiến phát biểu của Lê Đức Anh ? N hững ý kiến “mất yếu tố bí mật, bất ngờ” hay “dân chúng chỉ giúp đỡ Quân Giải Phóng mà không nổi dậy” có ghi trrong biên bản, ở phần “ Bài Học Thất Bại của Đợi 2 và Đợt 3” thì thấy có ý kiến của các ông: Võ Văn Kiệt, Trần Văn Trá, Hoàng Văn Thái, Mai Chí Thọ, Trần Bạch Đằng và Trần Hãi Phụng… Bây giờ, sau hơn 30 năm, ông Lê Đức Anh lại lấy ý kiến tổng kết của tập thể làm ý kiến riêng của mình> Như vậy, ông Lê Đức Anh đã trở thanh kẻ mang danh Đạo Ý (thay vì Đạo Văn), nhưng chưa thấy nhà thơ nào phát huy truyền thống của cụ Nguyễn Đình Chiễu, làm thơ “ tặng” cho ngài “Đại tướng Lê Dức Anh”?<br /><br />Sự “Lộng Giả Thành Chân” của Lê Đức Anh vào thời kỳ 1969-1975, là dựa vào cây cột trụ Lê Duân để dương dương tự đắc! Không hiểu giữa Lê Duẫn vớiLê Đưc Anh có quan hệ gì bên trong “bức màn bí mật’ về tư riêng trong quá trình gọi là “hoạt động cách mạng” của họ? Hảy nghiên cứu kỹ cuốn sách đã dẫn, từ trang 95 cho đến hết phần III, thì sẽ rõ! Dưới đây, chúng tôi chỉ đưa ra thí dụ điển hình, để minh họa cho dòng tư tưởng “gọi ta là người tài giỏi hơn người” của ông tướng xuất than từ “Cai đồn điền”.<br /><br />Theo sách đã dẫn: Sau Mậu Thân 1968, Lê Đức Anh cùng ra Bắc với Trung tướng Hoàng Văn Thái và Bí thư Trung ương cục Phạm Hùng (sau khi Nguyễn Chí Thanh chết, Phạm Hùng đương kim Phó Thủ tướng Chính phủ VNDCCH, từ Hànội vào thay thế, chỉ huy cuộc Tổng tấn công Mậu Thận 1968).<br /><br />Ở Hànội, Lê Đức Anh cho biết: “Tôi gặp anh Lê Duẩn, được phổ biến là tôi sẽ về phụ trách Quân khu 9…” (sđd, tr. 96)<br /><br />Lê Đức Anh cũng cho biết:” Được Bác gọi lên. Tôi báo cáo với Bác làm như thế… thắng như thế… Bác bảo ăn cơm với Bác…Bác bảo:”… Chú hãy chuẩn bị để đưa Bác vào thăm đồng bào và chiến sĩ miền Nam.”… “Tôi bải anh Phạm Hùng, bếu anh đồng ý thì tôi tổ chức (đưa Bác vào Nam) được…” (sđd, tr. 96)<br /><br />Tháng 7-1969, Lê Đíc Anh trở vào Nam, Lê Đức Anh cho biết: “tôi được cấp trên giao nhiệm vụ đảm trách Tư lệnh Quân khu 9, anh Võ Văn Kiệt làm Chính ủy kiêm Bí thư khu ủy.” (sđd, tr. 99)<br /><br />Ông Lê Đức Anh đã xem chiến trường khu 9 (mật danh T3) là nơi “dụng vỏ của anh hung cá nhân”! Vì vậy, ông đã không nghe lệnh cấp trên, khi ông thấy cấp trên ra lệnh không đúng ý của ông! Thí dụ như: “khi Quân khu 9 đang tổ chức đánh địch bình định lấn chiếm… thì Bộ chỉ huy Miền co chỉ thị rít 2 trung đoàn chủ lực về căn cứ U Minh để củng cố. Trung ương Cục còn điện hai lần yêu cầu T3 (…) phải thấy tình hình mới, phải có biện pháp mới (điện số 05 và 07), còn Bộ chỉ huy Miền thì điện phê bình T3 không thi hành chủ trương của trung ương Cục và thông báo cho toàn Miền. Lúc đó có ý kiến cho rằng Tây Nam Bõ “không thực hiện Hiệp định Paris” Mặc dù có điện, nhưng ông Anh ra lệnh cho đồng chí Hai Minh, trợ lý tác chiến cùng tổ điện đài sở chỉ huy tiếp tục truyền đạt các mệnh lệnh của ông chỉ đạo các đơn vị đánh địch.” (sđd, tr. 117-118) Nói ra sự việc này, Đại tá Lê Đức Anh muốn chứng tỏ rằng Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền đều sai lầm, nên ông chủ động hành động, không chấp hanh lệnh của cấp trên? Khách quan mà xét: Đây phải là quyết định chung của Quân khu ủy và được sự chấp thuận cụa Khu uy Khu 9, mới thuận lý? Nhưng, theo sách đã dẫn, ông : ê Đức Anh tự quyết định,?<br /><br />Lê Đức Anh đã coi mình là nhân vật quan trông hơn cả Bí thư khu ủy Võ Văn Kiệt, như khi kể lại sự việc sau đây: “Sau khi Trung ương có Nghị quyết 21, Bộ Chính trị cử các ông Tố Hữu, Đinh Đức Thiện, Nguyễn Thọ Chân vào miền Nam truyền đạt nghị quyết. Nhưng đồng chí Lê Duẩn còn băn khoăn một điều là nghị quyết như vậy có sát với tình hình thực tế chiến trường hay chưa, nên gọi đại diện lãnh đạo các quân khu [hía Nam ra, để nghe trực tiếp báo cáo.Quân khu 9 đã cử ông Võ Văn Kiệt đi. Sau đó, ông lê Duẫn gọi tiếp ông Lê Đức Anh ra báo cáo.” (sđd, tr. 123) Thực tế này cũng chứng tỏ rằng: Lê Duẫn đã công khai nâng cao vai trrò quân sự và chính trị của Lê Đức Anh trên chiến trường miền Nam , để biến Lê Đức Anh trở thành một đàn em tuyệt đôi trung thành với tập đoàn thống trị độc tài: Lê Duẫn-Lê Đức Thọ-Lê Đức Anh, trong những năm sau tháng Tư 1975 (!)<br /><br />Ông Lê Đức Anh đề cao mình bằng cách khoe rằng: Ra đến Hànội, người đầu tiên đến thăm ông là Đại tướng Văn Tiến Dũng. Hôm sau , ông được mời ăn cơm chung với các vị Lê Duẫn, Phạm Văn Đồng và Lê Đức Thọ. Sau bửa ăn, Lê Duãn đã gặp riêng Lê Đức Anh và bảo: “Về nói với anh Hùng, anh Trà, bàn trong nội bộ làm kế hoạch tác chiến và cùng với ngoài này , tích cực chuẫn bị mọi mặt để có thể giải phóng nhanh nhất.” (sđd, trang 125)<br /><br />Một viên “Đại tá” mà được “tín nhiệm” thuộc hang “Đại tướng” như vậy, thật là hiếm có trong tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ trước đến bấy giờ (?)<br /><br />Khi Lê Đức Anh trở về đến B2 , thỉ nhận được quyết định của trung ương chô ông thăng cấp Trung tướng, nghĩa là vượt 2 cấp vào đầu năm 1974, giữ chức Tham mưu trưởng Bộ chỉ huy Miền (Thiếu tướng Đồng Văn Cống thay Lê Đức Anh làm Tư lệnh Quân khu 9)…….<br /><br />Khi bước vào Chiến dịch Hồ Chí Minh, Lê Đức Anh lại tự hào khoe rằng: “Tôi là Phó Tư lệnh chiến dịch nhưng được giao đảm trách chỉ huy cánh quân tiến công hướng Tây-Tây Nam….” (sđd, trang 141)<br /><br />Rõ ràng, Lê Đức Anh muốn cho độc giả biết ông là một nhân vật rất quan trọng. Do đó, ông không hề đề cập đến danh sách của toàn bộ Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch. Theo “Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam” tập II (1954-1975) thì Đảng ủy Bộ Tư Lệnh Chiến dịch Giải phóng Sàigòn gồm có: Đại tướng Văn Tiến Dũng (Tư Lệnh), Bí thư Trung ương cục Phạm Hùng (Chính ủy kiêm Bíc thư Đảng ủy), Tư lệnh Bộ chỉ huy Miền Thượng tướng Trần Văn Trà (Phó Tư lệnh thứ nhất kiêm Tham mưu trưởng) và các Phó tư lệnh chiến dịch là: Trung tướng Lê Đức Anh, Trung tướng Lê Trọng Tấn; Phó Chính ủy chiến dịch là Thiếu tướng Lê Quang Hòa.. (Sách đã dẫn, nhà xb Chinh trị Quốc gia, Hànội, 1995, trang 706)<br /><br />Sự lộng giả thành chân của Lê Đức anh ở Phần III trong cuốn sách này, là chuẩn bị cho vai trò của ông trong giai đoạn lịch sử 1979-1990 trên đất Campuchia *!)<br /><br />*<br /><br />Trước khi xem xét phàn IV của uốn sách này, chúng tôi mở một dấu ngoặc về đời tư của ông Lê Đức Anh. Đúng ra, chúng tôi không muốn đề cập đến quyền tư ẩn của con người, nhưng vì ở đây, cái gọi là đời tư đó lại sai phạm rất nghiêm trọng về mặt đạo đức ! Nguyên là. Khi đi tập kết ra miền Bắc, ông Lê Đức Anh không có mang vợ theo. (Sự thật đó, cũng là tinh trạng chung của đại đa số cán bộ và chiến sĩ miến Nam đi tập kết! Đây cũng chính là ý đồ thâm sâu của Trung ương Đảng CSVN, nhằm chuẩn bị cơ sở cho công cuộc lật đổ chế độ VNCH!) Nhưng, ở miền Bắc được mấy năm, Lê Đức Anh không chịu đựng được cái cảnh “phòng không “, nên xin ông Trưởng Ban Tổ chức Lê Đức Thọ cho ông ta cưới vợ mới Lẻ đương nhiên là Lê Đức Thọ không bao giờ từ chối, vì cùng là “cá mè một lứa”. Khi Lê Đức Thọ vào Nam bộ , trong thời kháng chiến chống Pháp, chưa đầy một năm Lê Đức Thọ cũng lấy vợ mới – Lê Duẫn củng vậy – Cho nên Lê Đức Thọ chấp thuận cho Lê Đức Anh lấy vợ mới.<br /><br />Thật ra, nếu câu chuyện dừng lại chỗ này, thì không có gì đáng phê phán. Nhưng điều đáng phê phán chính la ở đoạn thư tố cáo này: “Trong quan hệ gia đình LĐA là người chồng phản bội, ra Bắc được mấy năm, LĐA nói với đồng chí Bả Cống (tức Thiếu tướng Đống Văn Cống) là sẽ xin lấy vợ khác, vì bà Bả Anh ở trong nam đã lấy chồng, lại thuộc thành phần gia đình phản động làm tay sai cho địch….” Nhưng, sự thật là “vợ LĐA đang hoạt động cách mạng, làm ủy viên tỉnh ủy Bình Đương cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giả phóng.” (Nguyễn Văn Thi, thư ngày 7-11-2005, đã dẫn)<br /><br />Để thỏa mãn dục vọng cá nhân, mà dựng chuyện nói xấu người vợ một long chung thủy với chòng, tuyệt đối trung thành với cách mạng, thì Lê Đức Anh quả thật đã phạm một tội ác về đạo đức làm người!<br /><br />IV- Làm nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, từ trang 155 đến trang 207. Sự “Lộng Giả Thành Chân” ở phần này chủ yếu là: Lê Đức Anh đổ hết mọi tội lổi đã gây ra trên “Đất Bạn” cho cấp dưới, đồng thời tô vể cho mình cái “danh dự” gọi là “hơn mười năm giúp bạn”, nhằm trèo lên nấc thang cao nhất của danh vọng cộng sán (!)<br /><br />Sau ngày 30-4-1975, Lê Đức Anh được cử làm Tư Lệnh Quân khu 9 mới (bao gồm khu 9 và khu 8 củ). Đến năm 1977, Lê Đức Anh được điều về làm Tư Lệnh Quân khu 7 kiêm “chỉ huy trưởng tiền phương” của Bộ Quốc phòng ở phí Nam…(Theo sđd, từ trang 155 đến trang 159). Đến tháng 1-1980, Lê Đức Anh được thăng cấp Thượng tướng.<br /><br />Từ tháng 5-1977 đến tháng 12-1978, là thời kỳ “chiến tranh biên giới TâyNam.:- Quân của :Pôn Pốt (được sự yểm trợ của Trung Cộng) đã mở nhiều cuộc tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Nam (từ quân khu 9 đến quân khu 5). Ngày 23-12-1978, quân đội CSVN bắt đầu phản công quân Pôn Pốt trên khắp mặt trận…V à đến ngày 7-1-1979, quân CSVN đã chiếm được Phnom-Pênh…và dựng lên cái gọi là Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Camouchia do Heng-Somrin làm Chủ tịch!<br /><br />Sự lập lờ của :Lê Đưc Anh trong thời kỳ lịch sử ( từ 23-12-1978 đến 7-1-1979) là không đề cập rõ ràng về Bộ Chỉ huy Tối cao của Chiến dịch Tổng tấn công Campuchia, gồm có : Lê Đức Thọ (Tư lệnh), Phạm Hùng (Chính ủy), Chu Huy Mân (Phó tư lệnh).Trần Xuân Bách (Phó chinh ủy), Lê Đức Anh (Tham mưu trưởng kiêm Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam).<br /><br />Lê Đức Anh chỉ cho độc giả biết như sau:<br /><br />“Có một lần, Tổng Bí thư Lê Duẫn cho gọi anh Lê Trọng Tấn và tôi lên, có cả đồng chí Phi Long, Cục phó Tác chiến mới… Đồng chí bảo: “Cố gắng làm xong sớm rồi rút quân ở Campuvhia về Nam bộ làm ruộng… ” (sđd, trang163)<br /><br />Mặt khác,Lê Đức Anh cố ý đề cao Lê Đức Thọ, hàm chứa sự đề cao cho chính ông, như cách nói sau đây: “Khi có một số anh em không hiểu rõ nên cứ nói rằng “Công việc ở Campuchia cứ giao tất cho anh Sáu Nam (LĐA) cũng được rồi, cần gì phải có đồng chí Sáu Thọ (Lê Đức Thọ) nửa.” Ông Lê Đức Anh bảo “Không được!......” “ông Lê Đức Thọ là người đại diện cho Bộ Chính trị, trực tiếp chỉ đạo giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và nhiệm vụ quốc tế giúp bạn ở Campuchia…” (sđd, trang 170-171).<br /><br />Lê Đức Anh không nói gì đến vai trò của Phạm Hùng, Chu Huy Mân và Trần Xuân Bách (?), mà chỉ nói qua về Lê Trọng Tấn. Nhưng, Lê Đức Anh lại ca ngợi đến “chín tầng mây” đối với Lê Đức Thọ, rằng::” ông Thọ là người thiết kế từ đầu, là người quyết định những vấn đề lớn, như xây dựng lực lượng, phương thức tiến hành , phương án chiến đấu, đìều binh khiển tướng.” Mục đích ca ngợi Lê Đức Thọ của Lê Đức Anh là nhằm để đề cao mình, rằng: “Khi Trung ương lần lượt gọi anh Tấn và ông Thọ về nước thì giao lại cho tôi.” (sđd, trang 171), Trong thực tế, đúng như Lê Đức Anh đã tự hào. Bởi vì từ 1981 (Lê Đức Anh đã được đề bạt giữ chức Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng) đến 1990, Lê Đức Anh là Tư lệnh tối cao cũa Quân Tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, bao gồm hai khối-Lực lượng quân đội và Đoàn chuyên gia! Đó cũng là thời gian lộng hành kiểu “bạo chúa thời trung cồ” của Lê Đức Anh trên đất Chùa Tháp!<br /><br />Lê Đức Anh đã khôn khéo che dấu tội lỗi của ông, làm tổn hại quá lớn lao đối với Đảng Nhân Dân Cách mạng và Dân tộc Camphuchia , bằng cách biện minh rằng:<br /><br />“Trong hơn mười năm sống, chiến đấu, công tác gian khổ và cam go trên đất bạn, trong hon mười vạn Quân tình nguyện,cũng có một số cá nhân và đơn vị vi phạm kỹ luật dân vận, nhưng số này không nhiều, và xác đơn vị đã ngăn chặn và thi hành kỹ luật nghiêm khắc…… Bởi vậy không chỉ có lãnh đạo của bạn, mà cả nhân dân Campuchia, cả vua Sãi và Quốc vương đều nói Quân tình nguyện Việt Nam là “Quân đội nhà Phật” (sđd, trang 172)<br /><br />Rõ ràng, khi Lê Đức Anh viện dẫn câu nói của vua Sải và Quốc vương Campuchia là: Quân tình nguyện Việt Nam là “Quân đội nhà Phật” (?), cũng có nghĩa là người cầm đầu quân đội đó là “Phật sống” (?)<br /><br />Vậy ông “Phật sống” Lê Đức Anh đã làm nên tội lỗi gì trên đất Campuchia, trong mười năm đóng vai “ngoài miệng thì Nam Mô A Di Đà, trong bụng lại chứa một bồ dao găm”???<br /><br />Tội lỗi của Lê Đức Anh đã gây ra trên đất Campuchia, thật là không kể sao cho hết, nếu nhà nghiên cứu nào chịu khó để ra vài năm thời gian, đi khắp đất nước Campuchia , điều tra nghiên cứu trong dân gian, chắc chắn sẽ thu thập được nhiều tư liệu sống, để viết một cuốn sách hàng nghìn trang về “Tôi ác của Lê Đức Anh trên đất Chùa Tháp”! Nhưng, trong cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” của Khuất Biên Hòa thì chỉ thấy có công “lớn như trời biển”, còn lỗi lầm chỉ là “một hạt cát trong bãi sa mạc’!(Xin mời bạn đọc hảy đọc từ trang 172 đến trang 271 của cuốn sách đã dẫn , thì sẽ biết!)<br /><br />Trong bài luận xét này, chúng tôi chỉ dẫn ra vài sự kiện, mà trong sách đã dẫn, có nói tới, nhưng chỉ nói theo cách Lộng Giả Thành Chân một cách khá tinh vi!<br /><br />- Một: Về sự kiện “K5”.<br /><br />K5 là gì ? Đó là mật danh của tuyến tuần tra biên giới Campuchia-Thái Lan, dài hơn 800 km. (Đúng ra là 1.200 km) Để xây dựng “K5”, Lê Đức Anh đã ra lệnh huy động hang chục vạn dân công Campuchia, bỏ công việc làm ăn sinh sống, rời xa gia đình, để đi đến vùng rừng sâu nước độc, đặng làm việc không công như đốn cây, đào hào, trồng tre, rải chông, căng giây thép gai dọc theo đường biên giới Campuchia-Thailand dài 1.200 km, làm thành tuyến tuần tra phòng thủ với danh hiệu vinh quang gọi là “bảo vệ tổ quốc Canpuchia” (Xem sđd, trang 175-176)<br /><br />Công trình “K5” , có thể nói là một sang tạo “chiến lược phòng thủ thụ động” của “nhà quân sự lớn” Lê Đức Anh. Điều đó chứng tỏ rằng, Lê Đức Anh không học được “Bài học thất bại của Mc. Namara” về “hang rào điện tử” trên tuyến bờ Nam song Bến Hãi trong những năm 1965-1970! Quân Cộng sản Bắc Việt vẫn có cách vượt qua “hang rào đìện tử” của Mac Namara, để đưa quân, tràn vào miền Nam Việt Nam! Công trình “K5” của Lê Đức Anh, không nói khoản tiêu phí khổng lồ về mặt tài chánh, chỉ nói về sinh mạng con người thôi: Mấy chục vạn dân và nộ đội Campuchia và Quân tình nguyện Việt Nam đã bỏ xác tại tuyến phòng thủ “K5”? Thế nhưng, quân Pôn-Pốt vẫn phá được tuyến phòng thủ, và thọc sâu vào nội địa Campuchia, cách xa biên giới hàng 30-40 km! Đúng như sự tố cáo sau đây, của mõt số nguyên là Tướng-Tá Cộng sản ở Nam bộ, rằng:<br /><br />“Lê Đức Anh chỉ đạo chiến tranh theo kiểu “ăn đong”, năm này chưa xong thì năm sau, kéo dài 10 năm vẫn chưa diệt được quân Pôn-Pốt. LĐA chủ trương “khóa chặt biên giới” để “xây dựng tuyến phòng thủ biên giới” …” “nhưng địch vẫn mở được hành lang tiến sâu vào đến 30-40 km. Chủ trương sai lầm này của LĐA , đã làm cho hang chục vạn cán bộ, chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam, cũng như bộ đội và nhân dân bạn bỏ xác trên tuyến biên giới dài 1.200 km.” (Thư tố cáo của ông Nguyễn Văn Thi, ngày 7-11-2005, đã dẫn)<br /><br />- Hai: Về sự kiện Seam -Reap.<br /><br />Sự kiện Seam-Reap xảy ra vào cuối băm 1982 (theo Lê Đức Anh, nhưng có người lại nói năm 1984?). Lúc đó, đột nhiên trong dư luận của nhân dân Campuchia tại tĩnh Seam-Reap, đang lan truyền một tin dồn là: “Khơ Me Đỏ đã gạy dựng được cơ sở ở nhiều nơi trong tỉnh Seam-Reap, và có nhiều người trong Đảng cũng như trong Chính quyền cách mạng đã làm việc cho bọn Pôn-Pốt” Dư luận trong quần chúng đả coi đó là: “ Chính quyền hai mặt”( ngày thì làm việc cho Heng-Somrin, đêm lại làm việc cho Pôn Pốt (?)<br /><br />Rồi một hôm, có một thanh niên Campuchia, tự xưng tên là Sơn Nuôl, đến ngay đơn vị 479 của Quân tình nguyện Việt Nam đóng ở vùng biên giới Campuchia-Thailand.. Sơn Nuôl tự thú rằng: “Tôi vốn là cán bộ cấp xã của Đảng Nhân Dân Cách Mạng đã bị bọn Khơ Me Đỏ mua chuộc, và đã trót làm việc cho chúng. Nay đã biết sai lầm, nên ra tự thú với các đồng chí Việt Nam.” Cán bộ chỉ huy Quân báo của đơn vị 479 không nhận ra mưu kế phản gián của địch, nên đã báo cáo lên Cục Quân Báo thuộc Bộ Tư lệnh Quân tỉnh nguyện Việt Nam ở Phnom-Penh. Thế là, một kế hoạch sử dụng “nhị trùng Sơn Nuôl” được thực hiện ngay, bằng cách cho tên Sơn Nuôl nhập trở lại đơn vị Khơ Me Đỏ ở trên đất Thailand,, sát biên giới Campuchia.<br /><br />Ba tuần sau, thuộc trung tuần tháng 4-1982, Sơn Nuôl trở lâi đơn vị 479 để náo cáo tình hình khẩn cấp, rằng: “:Bọn chỉ huy Khơ Me Đỏ đã đưa về vùng Bắc Seam-Reap 800 khẩu sung, trong đo có 20 khàu sung cối, còn hầu hết lả Tiểu lien AK do Trung Cộng cung cấp. Bọn Khơ Me Đỏ dự định sè tiến hành khởi nghĩa cướp chính quyền tỉnh Seam-Reap, vào tháng 8-1982, bằng chiến thuật “trong nổi dậy, ngoài đánh vô” (?)<br /><br />Sơn Nuôl lại được phái quay trở về đơn vị cũ của quân Pôn Pốt, mà hắn đang làm “cận vệ cho tên Trung đoàn trưởng”, để nắm tình hình chuẩn bị khởi nghỉa cướp chính quyền Seam-Reap của Khơ Me Đỏ (?)<br /><br />Đầu tháng 5-1982, trong một trận đánh nhau với quân Khơ Me Đò tại phía Tây thị xã Seam-Reap, gần hồ Tonlé-Sap, bộ đội Việt Nam bắt được 6 tù binh Khơ Me Đỏ, trong đó có một Trung đoàn phó. Khi cán bộ Quân Báo Việt Nam tiến hành thâm vấn tên Trung đoàn phó Khơ Me Đỏ, thì hắn không khai gì hếtl Nhưng sau khi tra tấn, đau quá chịu không nổi, hắn mới chịu khai. Và những lời khai của hắn hoàn toàn ăn khớp với báo cáo của tên Sơn Nuôl !<br /><br />Cục Quân Báo-Ban Tham Mưu của Quân tình nguyện Việt Nam, sau khi đối chiếu tin tức của “nhị trùng Sơn Nuôl” báo cáo với lời khi của tên “Trung đoàn phó tù binh:, thì thấy rất “ăn khờp” về “âm mưu khởi nghĩa cướp chính quyền Seam-Reap của Khơ Me Đỏ”! Do đó, Cục Quân Báo của Quân tinh nguyện Việt Nam đã tưởng “chắc ăn như bắp”, nên liền lập bản kế hoach “Tiên diệt âm mưu khởi nghỉa của quân Khơ Me Dỏ tại Seam-Reap từ trong trứng nước” (!?). Kế hoạch này nhanh chóng được Bộ Tư Lệnh Quân tình nguyện Việt Nam chuẩn y! Thế là, một chiến dịch khủng bố, lập tức giáng lên đầu của những ai được liệt vào danh sách “chính quyền hai mặt”!<br /><br />Thế là, hàng loạt cán bộ Đảng và Chính quyền Nhân Dân Cách Mạng Canpuchia tại tỉnh Seam-Reap, đã bị bắt, trong đó có các Trưởng Ty Giáo dục, Giao thong, Nong Nghiệp và Văn hóa, cùng Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chánh tỉnh, Chánh Văn phòng Tỉnh ủy, Thường vụ Tỉnh ủy… Có tất cả hơn 40 người bị tống giam dưới hầm đất ở trong một khu rừng ní mật! Cho đến khi ông Bí thư Tỉnh ủy Seam-Reap, thấy “đồng chí sĩ quan Việt Nam” Đến bắt mình, nên đã tự sát, và để lại một di thư ngắn gọn rằng: “Các đồng chí bộ đội Việt Nam đã làm sai rồi! Tôi và các đồng chí của tôi đều là người cách mạng, tuyệt đối trung thành với Dảng Nhân dân Cách mạng!...”; thì sự việc mới vở lỡ ! Đảng và Chính quyền Trung ương của Campuchia, và cáp Chỉ huy Tối cao của Quân tình nguyện Việt Nam, tức tốc về Seam-Reap tiến hành thẩm tra tại chỗ! Cuối cùng, họ đã nhất trí kết luận:rằng “Tất cả cán bộ, đảng viên ở Seam-Reap đều bị bộ đội Việt bắt oan! Họ hoàn toàn không có tội gì hết! Đây, rõ ràng là Kế hoạch Phản gián của Khơ Me Đỏ do cố vấn Trung Cộng bày mưu tính kế và chỉ hành động!”<br /><br />(Những chi tiết viết ra trên đây, là căn cứ theo sự tiết lộ của Đại tá Quân Báo Hai Nguyên - tức Trần Ngọc Thuận, là một trong những Đại tá bị Lê Đức Anh thi hành kỹ luật, sau vụ án oan Seam-Reap - Cần Thơ, năm 1992)<br /><br />Nhưng, trong sách đã dẫn, Lê Đức Anh không hề nói tới một chi tiết trọng yếu nào? Ông ta chỉ bào chửa rằng: “Lúc xảy ra sự việc, tôi đang đi chửa bệnh ở Liên Xô, đồng chí Hồ Quang Hoa thay tôi quyền Tư lệnh 719.” “Lúc tôi được anh Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị gọi về, một bên mắt tôi còn băng kín… Lúc đó, tôi nhớ anh Tô (Phạm Văn Đồng) là cố vấn Ban chấp hành Trung ương đã phê phán rất gay gắt và đề nghị một mức kỹ luật rất nặng đối với toàn bộ cán bộ chủ chốt của Bộ Tư lệnh 479 và 719 có lien quan đến vụ việc. Sau khi bàn bạc, Bộ Chính trị nhất trí giao cho tôi xử lý vụ việc…” (sđd, trang 186-187)<br /><br />Trong 3 năm nắm quyền lãnh đạo tối cao của Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia (1980-1982), Lê Đức Anh đã phạm nhiều lỗi lầm quan trọng, đã làm hại nhiều sinh mạng và tai sản của nhân dân Campuchia, cũng như sinh mạng của nhiều thang niên Việt Nam! Vậy mà, tháng 12-1984, Lê Đức Anh vẫn được thăng cấp Đại tướng . Đến tháng 12-1986, khi Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Lê Trọng Tấn chết, Lê Đức Anh được giữ luôn chức Tổng Tham mưu trưởng. Đến tháng 2-1987, Lê Đức Anh được thăng chức Bộ Trưởng Quốc Phòng . Trong Lịch sử Quân đội Nhân dân Việt Nam, không có ai thăng cấp, thăng chức mau như Lê Đức Anh (!?)<br /><br />Rõ ràng, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đã bao che cho Lê Đức Anh. Bởi vì, nhiều hay ít, với tư cách người chỉ huy tối cao của Quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia, Lê Đức Anh phải chịu trách nhiệm phần nào, và không nên giao cho ông ta trực tiếp xử lý (?) Hơn nửa, theo Đại tá Hai Nguyên thì ọng Lê Đức Anh và các ông lãnh đạo Bộ Quốc Phòng, đã biết kế hoạch “tiêu diệt chính quyền hai mặt ở Seam-Reap”này! Bởi vì Thiếu tướng Hoàng Hoa (tức Hồ Quang Hóa), trước khi chấp thuận cho Cục Quân Báo hành động, cũng đã báo cáo cho cấp trên ở Hànội biết! Chính :Lê Đức Anh cũng thừa nhận sự thật này, như sau: “đồng chí Hồ Quang Hóa có ra Hà nội báo cáo với cấp trên.” (sđd, trang 187)<br /><br />Vậy, Lê Đức Anh đã xử lý thế nào?<br /><br />Ông đã tỏ ra “thong cảm cấp dưới”, rằng: “an hem đã mắc sai lầm, không kỹ luật thì không được, nhưng kỹ luật nặng quá cũng không nên, bởi vậy tư tưởng của tôi là kỹ luật càng ít người, mức kỹ luật càng nhẹ càng tốt.Do đó, cuối cùng chỉ thi hành kỹ luật hai người “trực tiếp” chỉ huy vụ việc, là đồng chí Hồ Quang Hóa, đồng chí Tư Thang, mỗi người hạ một sao, và cho trở về nước.”<br />(sđd, trang 188). Qua cách nói trên, đã chứng tỏ rằng: Lê Đức Anh rất coi thường sự góp ý của ông Phạm Văn Đồng. Sở dị Lê Đức Anh dám coi thường sự góp ý của “đồng chí Tô, là vì có Lê Duẫn và Lê Đức Thọ làm chổ dựa! ”<br /><br />Trong thực tế, không đúng như ông Lê Đức Anh nói. Theo một Đại tắ Quân Báo bị đuổi ra khỏi Đảng, ra khỏi quân đội, và bị đuổi về nước, cho biết: Ngoài anh ta, còn có 6 sĩ quan Quân báo khác cũng bị kỹ luật nặng! Còn Thiếu tướng Hồ Quang Hóa đã bị đưa ra khỏi Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng, hạ xuống cấp Đại tá, đưa về Việt Nam, làm Hiệu trưởng trường :Lục Quân 2 (Thủ Đức - Sàigòn).<br /><br />Còn có một sự việc mà Lê Đức Anh hoàn toàn dấu kín, và chắc chắn sẽ không bao giờ thừa nhận, nhưng :Lê Đức Anh , dù có quyền lực tới đâu, cũng không bịt được dư luận của quần chúng nhân dân của cả hai nước Campuchia-Việt Nam! Đó là việc Lê Đức Anh đã bí mãt ra lệnh cho các thuộc hạ than tín, cướp đoạt các tượng Phật bằng vàng, bằng đồng đen, ở các chùa chiền, đền đài trên khắp nước Campuchia, rồi đập nhỏ ra, mang về Việt Nam, bỏ vào kho tài sản riêng của 4 người: Lê Duẫn, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Do đó, không nên lấy làm lạ rằng: Khi cỏn sống, Lê Duẫn và Lê Đức Thọ đều hết long bao che cho Lê Đức Anh! Còn Đỗ Mười thì cương quyết bảo vệ Lê Đức Anh cho đến “hơi thỡ cuối cùng”!<br /><br />V- Trong công cuộc đổi mới đất nước, từ trang 208 đến trang 267. Sự “Lộng Giả Thành Chân” ở phần này là: Lê Đức Anh tự coi trí tuệ “nhìn xa thấy rộng” của mình đã vượt lên trên mọi người trong Bộ Chính trị trung ương Đảng, cho nên việc ông lên làm Chủ tịch nước là tất yếu (?)<br /><br />1- Điểm đầu tiên, Lê Đức Anh khoe “trí tuệ hơn người” của ông , là sau khi ông nhận chức Bộ Trương Quốc Phòng (1987), trong Hội nghị “Bộ Chính Trị hẹp”, ông đã đề xuất như sau: “Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ý định xâm lược …( do đó, phải) tìm cách để nối lại quan hệ bình thường với Trung Quốc … “ “Ý kiến của ông nhiều người đồng thuận. Thế thì được! Không có ai nói khác” (sđd, trang 216)<br /><br />Thật ra, Lê Đức Anh chỉ khai triển một cách cụ thể ý kiến của Nghị quyết Đối ngoại” đã thong qua trong Đại hội VI (12-1986) rằng: “tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các bước trong cộng đồng Xã hội Chủ nghĩa…” (Văn Kiện Đại Hội VI, Nhà xuất bản Sự Thật, Hànội, 1987, trang 99)<br /><br />Tiếp theo, ông Lê Đức Anh khoe công lao nối lại quan hệ bình thường với Trung Cộng, là nhờ chuyến đi “thăm nội bộ”Trung Quốc của ông vào cuối tháng 8-1991, với tư cách là “Đặc Phái viên Bộ Chính trị” của Đảng CSVN. Lê Đức Anh cho biết, ông đã trực tiếp bàn với Giang Trạch Dân-Tổng Bí thư Đảng CSTQ. Chính nhờ kết quả “Sau cuộc đi “tiền trạm” này của ông, từ ngày 5 đến ngày 10 tháng 11-1991, là chuyến thăm chính thức Trung quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt.” (sđd, trang 223)<br /><br />Thật ra, Lê Đức Anh chỉ là người thừa hanh nhiệm vụ do BCT trung ương Đảng CSVN giao, theo nghị quyết của Đại Hội VII rằng: “Thúc đẩy quá trình bình thường hóa quan hệ với Trung quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt – Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thong qua thương lượng.”<br /><br />(Theo tài liệu “Quan Hệ Việt Nam Trung Quốc…”, Nhà xuất bản KHXH, Hànội 2002, trang 21) Ông Lê Đức Anh tự quan trọng hóa và đề cao vai trò của ông ta, để chứng minh với mọi người rằng: “Lê Đức Anh ngồi ghế Chủ tịch nước là do tài năng của chính Lê Đức Anh” (!?)<br /><br />Có lẻ quá già rồi sinh ra lẩm cẩm, ông Lê Đức Ang đã quên rằng: Trước chuyến đi “bí mật” của Lê Đức Anh, thì từ ngày 8 đến ngày 10-8-1991, thì Thứ trưởng ngoại giao CSVN Nguyễn Di Niên và Thứ trưởng Ngoại giao Trung Cộng Từ Đôn Tín , đã gặp nhau tại Bắc Kinh, và “Hai bên đã trao đổi ý kiến về bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam-Trung Quốc…” (Tân Hoa Xã, 11-8-1991) Hơn nửa, trong việc “thăm nội bộ” của Lê Đức Anh với Đảng CSTQ, theo nguyên tắc ngoại giao, thì chỉ cần một Ủy viên BCT cùng cấp, để tiếp kiến Lê Đức Anh mà thôi. Nhưng , tại sao Tổng Bí thư Đảng CSTQ Giang Trạch Dân phải tiếp Lê Đức Anh? Chỉ có một sự giải thích hợp lý rằng: Đảng CSTQ muốn nắm Lê Đức Anh, và biến Lê Đức Anh thành “Cộng tác viên “ của Trung Cộng, nằm vùng trong Bộ Chính trị trung ương Đảng CSVN, để thực hiện âm mưu chiến lược lâu dài của Trung Cộng đối với Việt Nam! (Bởi vì Sở Phản gián Hãi ngoai của Trung Cộng đã biết rõ lai lịch và bản chất của Lê Đức Anh!) Chính những hành vi và thủ đoạn đánh phá nội bộ trung ương Đảng CSVN của Tổng Cục II sau này, do Lê Đức Anh chỉ đạo đã là một minh chứng rõ ràng!<br /><br />2- Điểm kế tiếp,:Lê Đức Anh tự hào về “tầm nhìn xa” của ông trong vấn đề Cam Ranh. Ông Lê Đức Anh cho biết: “Sauk hi Liên Xô tan rả, Chính phủ Cộng hòa Liên bang Nga thế chân tiếp tục Hiệp định, duy trì sự có mặt ở Cam Ranh. Mặc dù biết rằng Hiệp định còn hạn tới năm 2004, nhưng được sự nhất trí của Bộ chính trị và Ban Bí thư, tôi đã chỉ đạo các cơ quan chức năng của Bộ quốc phòng và của Nhà nước (khi tôi lên làm Chủ tịch nước) tiến hành đàm đạo một cách kiên trì, khôn khéo và êm dịu, để họ rút ra, để họ trao trả quân cảng Cam Ranh trước thời hạn. … Lúc đó tôi nói rằng các anh rút, chúng tôi chỉ xây dựng cảng cho hải quân Việt Nam sử dụng, chứ nhất định không cho bất cứ một nước nào vào đây thuê, cam đoan như vậy.”(sđd, trang 235-236)<br /><br />Lê Đức Anh còn cho rằng, ông ta sang suốt hơn các vị lãnh đạo Trung ương Đảng trong vấn đề “cho hay không cho Hoa Kỳ thuê Cam Ranh”? Và Lê Đức Anh cho biết: “Mỹ cũng vận động thong qua một vài nước ASEAN để thuê quân cảng Cam Ranh, ta nói rõ Việt Nam không chứa, không tang trữ vũ khí hạt nhân, không cho ai sử dũng cảng của mình, đất của mình, để có vũ khí hạt nhân ở đó…… Sau này Mỹ có dung một số nước tác động để thuê (Cam Ranh) của ta cho tàu của họ vào, thuê cảng nhưng để lấy nước ngọt thôi. Mấy ông lãnh đạo địa phương ưng lắm, cứ ra Trung ương xin ráo riết, tôi bảo nhất định không được.” (sđd, trang 236)<br /><br />Tại sao Lê Đưc Anh lại ngăn cản , không để cho Hoa Kỳ thuê quân cảng Cam Ranh? Những lý do của Lê Đức Anh nêu ra ở trên, có đúng là “ý nghĩ thật” của ông ta hay không? Trả lời chính xác hai câu hỏi này, mọi người sẽ nhận thấy xí đồ của Lê Đức Anh! Xí đồ của Lê Đức Anh là để dành cơ hội cho Trung Công thuê, vào lúc thích hợp nhất! Chuyến thăm Việt Nam của Hồ Cẩm Đào vừa qua (31/10 - 2/11/2005), và việc tiếp xúc không công khai giữa Hồ Cẩm Đào với Đỗ Mười và Lê Đức Anh, để bàn về vấn đề “nhân sự lãnh đạo tối cao của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng CSVN khóa X”, cùng với việc cho Trung Cộng thuê dài hạn quân cảng Cam Ranh, đã chỉ rõ xí đồ “trường kỳ mai phục” của Lê Đức Anh. Lẻ dĩ nhiên, nếu việc thuê Cam Ranh của Trung Cộng thành công, thì số USD bỏ vào túi của Đỗ Mười và Lê Đúc Anh, chắc chắn là trên 6 con số không ? (Theo nguồn tin tình báo từ Hồng kông, tháng 2-2005)<br /><br />3- Điểm sau cùng, Lê Đức Anh tự coi mình là người có tài năng tổng kết kinh nghiệm chiến tranh, với ẩn ý là tứ trước tới nay, không có ai “tổng kết kinh nghiệm chiến tranh” cho ông vừa ý… (chảng hạn như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Văn Tiến Dũng, Thượng tướng Hoàng Văn Thái, Thượng tướng Trần Văn Trà v. v …?)<br /><br />Vì thế,Lê Đức Anh tuyên bố rằng: “Làm được việc này một cách đầy đủ, thấu đáo, có ngọn có ngành - Tổng kết Kinh nghiệm Chiến tranh – thì mang lại ý nghĩa rất to lớn. Trước hết nó sẽ lý giải được một cách thuyết phục là vì sao Việt Nam - một nước nhỏ, nghèo, nền sản xuất kinh tế lạc hậu mà lại thắng được hai đế quốc to là Pháp và Mỹ……Hai là, nếu ta tổng kết một cách khoa học và nghiêm túc thì sẽ có ích cho công cuộc giữ nước hôm nay và mai sau.” (sđd, trang 242-243)<br /><br />Trong thực tế, cho đến khi cuốn sách này ra đời, Lê Đức Anh chỉ nói – nhưng, nói cũng không có gì mới và sâu sắc hơn những người khác? Trong kho tang “những bài học về kinh nghiệm chiến tranh” của Việt Nam, chưa hề thấy một cuốn sách hay một luận văn nào của Lê Đức Anh viết. Do đó, ông cố tình bào chửa rằng: “Nguyện vọng của tôi như vậy, nhưng tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII Đại hội vẫn bầu tôi vào Ban Chấp hành trung ương và Ban Chấp hàng trung ương đã bầu tôi vào Ủy viên Thường vụ Bộ Chính tri. Tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IX , tôi được bầu là Chủ tịch nước.” (sđd, trang 244) Đây cũng là một cách tự đề cao mình theo lối kiêu kỳ rằng :“Tôi không muốn làm, nhưng vì anh em cần tôi, nên tôi không thể từ chối (?!)”<br /><br />*<br /><br />Đọc tới trang cuối cùng của cuốn “Đại tướng Lê Đức Anh” do Khuất Biên Hòa biên soạn, chúng tôi thật không ngờ sự lộng giả thành chân quá lộ liễu như vậy!<br /><br />Đó là chưa kể những việc làm đầy tội lỗi của Lê Đức Anh, mà trong cuốn sách này không hề nói, như “những mưu đồ chính trị bằng vụ Sáu Sứ 1991, vụ Cục II 1995, vụ T4 1997-1999, vụ nói xấu, vu khống nhằm lật đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu…”(Theo Thư tố cáo của ông Nguyễn Văn Thi, ngày 7-11-2005)<br /><br />Và như Trung tướng Nguyễn Hòa, nguyên Ủy viên trung ương Đảng CSVN các khóa V, VI và VII, đã vạch trần sự thật một cách khái quát về nội dung của cuốn sách này, như sau: “vừa khoe khoang, vừa nói không đúng sự thật, vừa biện minh bào chửa cho Lê Đức Anh, phát hành trên 7.000 quyển? Trong đó, người viết (dưới sự chỉ đạo của Lê Đức Anh) đã dùng một thong báo muộn màng (ra vào ngày 24-1-1997, sau 12 năm) gọi là thong bào số 72/TCTW về chính sách, để bào chửa cho sự gian dối về tuổi Đảng của Lê Đức Anh…”(Thư góp ý kiến với Trung Ương Đảng củ Trung tướng Nguyễn Hòa, trước khi Đại Hội X họp, Hànội, 1-2-2006)<br /><br />Qua việc nghiên cứu nội dung cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” do Khuất Biên Hòa biên soạn, chúng tôi nhận thấy rằng: Đây là một cuốn Tiểu Sư Nhân Vật Bất Chính! Nó bất chính ngay cả sự kiện và cách kết cấu nội dung, cùng lời văn sáo rỗng, câu văn luộm thuộm và nhiều lỡi về ngữ pháp (hay nói theo cách nói cũa ông Hồ Chí Minh là: “không trong sáng”, mà vẫn đục như nước chứa đầy cặn bã!). Một nhân vật đã có nhiều hành vi xấu như ông “Cai Lé’ Lê Đức Anh, mà leo lên đến Chủ tịch nước CHXHCNVN, thì chứng tõ tập đoàn lạnh đạo Trung ương Đảng CSVN đã và đang thoái hóa đến cực điểm! Sự khủng khoảng lãnh đạo tối cao của Trung ương Đảng CSVN đã trầm trọng như con bệnh trầm kha, không có thuốc chửa như vậy, là sự báo hiệu sẽ sụp đổ trước cơn giông tố chính trị, trong một thời gian không xa nửa, nếu Đảng CSVN không kịp thời cắt bõ những ung nhọt như Lê Đức Anh và đồng bọn!<br /><br />Đông Bắc Mỹ<br />Mùa Xuân Bính Tuất 2006<br />Lê Tùng MinhVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-26565129748945269562009-08-06T23:02:00.000-07:002009-08-06T23:04:18.139-07:00No27: Thư Chất Vấn và Kiến Nghị Gởi Hội Nghị Trung Ương 13Nguyễn Văn Thi<br />Ngày 23 tháng 09 năm 2005<br /><br />Kính gửi:<br />• Tổng Bí thư và Bộ Chính trị<br />• Ủy ban Kiểm tra Trung ương<br />• Ban chấp hành Trung ương khoá 9<br /><br />Đồng kính gửi:<br />• Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh<br />• Đại tướng Võ Nguyên Giáp<br />• Nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu<br />• Đồng chí Nguyễn Đức Tâm, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương.<br />• Đồng chí Phan Minh Tánh (tức Chín Đào), nguyên Trung ương Ủy viên, nguyên Phó Bí thư Thành ủy sau 1975<br />• Đồng chí Mười Hương, nguyên Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn.<br /><br />Căn cứ Điều lệ Đảng hiện hành về quyền của Đảng viên tại Điều 3 mục 3 và thể theo di nguyện của hai đồng chí trên 60 tuổi Đảng vừa quá cố là Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống, tôi Nguyễn Văn Thi (Năm Thi) sinh năm 1920, nguyên Ủy viên Ban cán sự Đảng, Ủy viên Tỉnh ủy, Ủy viên thường trực Tỉnh ủy Thủ Dầu Một (nay là tỉnh Bình Dương - Bình Phước) từ năm 1942 đến 1946, Chi đội trưởng Chi đội 1, Liên trung đoàn 301 - 310, Tư lệnh đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn 1950, Bí thư Đảng bộ nhà tù Côn Đảo 1953, thời chống Pháp; Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Chỉ huy miền thời chống Mỹ, nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh, viết thư chất vấn kiến nghị này gởi Ban chấp hành Trung ương tại Hội nghị Trung ương 13, nội dung sau:<br /><br />Những vụ việc chính trị nghiêm trọng xẩy ra trong 20 năm qua từ vụ Xiêm Riệp 1983, Sáu Sứ 1991, vụ nâng Cục 2 lên thành Tổng cục 2 với quyền hạn siêu Đảng siêu Nhà nước, được hợp pháp hoá bằng Pháp lệnh tình báo của Ủy ban thường vụ Quốc hội và Nghị định 96 của Chính phủ, vụ T4 (1997-1999) đến vụ vận động thay đổi, nói xấu, vu khống, lật đổ Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu trước Đại hội 9 đều do bàn tay của nguyên cố vấn Lê Đức Anh.<br /><br />Tôi đã có thư gởi Trung ương Đảng 3 lần để báo cáo sự thật về Lê Đức Anh.<br /><br />- Lần thứ nhất, trước Đại hội 6 ngày 02/08/1986 tôi có thư gởi cho đồng chí Lê Đức Thọ, Nguyễn Đức Tâm để nói rõ “Tháng 02/1945 mới tổ chức Mặt trận Việt Minh trong công nhân cao su. Ngày vào Đảng (của Lê Đức Anh) do Đảng bộ Thủ Dầu Một có thể là đúng. còn trước 1945 tôi (Năm Thi) chưa thấy rõ, vì không có sự giới thiệu nào là một đồng chí Đảng viên nằm vùng”.<br /><br />- Lần thứ hai, trước Hội nghị Trung ương 12 khoá 9 ngày 03/02/2005 tôi cùng đồng chí Phạm Văn Xô và đồng chí Đồng Văn Cống có thư gởi Ban Chấp hành Trung ương để báo cáo về 6 vấn đề của Lê Đức Anh mà ba chúng tôi hiểu biết rất rõ là:<br /><br /> 1. Lê Đức Anh không phải là công nhân cao su.<br /> 2. Lê Đức Anh không phải là Đảng viên từ năm 1938.<br /> 3. Lê Đức Anh đã hai lần để sổng Toàn quyền Decoux, Thống đóc nam Kỳ Hoffen và chủ đồn điền De Lalant, sĩ quan Phòng nhì của Pháp.<br /> 4. Lê Đức Anh đã bỏ chạy không tổ chức cho lực lượng võ trang đánh trả quân Pháp tập kích vào Thuận Lợi, đã phá huỷ một khối lượng lớn cơ sở vật chất dự trữ của miền Đông thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ.<br /> 5. Lê Đức Anh đã phạm nhiều sai lầm từ 1979 đến 1989 khi lãnh đạo và chỉ huy quân tình nguyện Việt Nam chiến đấu và giúp bạn ở Cămpuchia.<br /> 6. Lê Đức Anh là người chồng phản bội ra Bắc được mấy năm nhờ Lê Đức Thọ ủng hộ bỏ vợ cũ trong Nam lấy vợ mới ngoài Bắc; còn cho chị Bảy Anh là phản động theo giặc, nhưng thực tế chị vẫn là một Tỉnh ủy viên đang công tác. Nay nghỉ hưu ở tại Thành phố Hồ Chí Minh. <br /><br />- Lần thứ ba, ngày 11/04/2005 tôi thay mặt hai đồng chí Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống đã có thư thứ 3 gởi Ban Chấp hành Trung ương (Ban chấp hành Trung ương) Khoá 9 nhắc lại nội dung thư ngày 03/02/2005 và yêu cầu trả lời.<br /><br />Ngày 23/05/2005 Ủy ban Kiểm tra Trung ương có văn bản số 2935/CV/KTTW gởi ba chúng tôi cho biết đã nhận được thư phản ảnh về lý lịch chính trị Lê Đức Anh và đã chuyển Ban bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương xem xét báo cáo Bộ Chính trị. Sau Hội nghị Trung ương 12 Ban Tổ chức Trung ương có quyết định do đồng chí Trần Đình Hoan ký cử đoàn cán bộ vào làm việc với ba chúng tôi do đồng chí Phạm Văn Thọ công bố quyết định và giới thiệu đoàn do đồng chí Phạm Văn Đồng - Chánh văn phòng Ban bảo vệ Chính trị nội bộ Trung ương làm trưởng đoàn và một số thành viên khác, tại 87 Trần Quốc Thảo - Quận 3 Thành phố Hồ Chí Minh. Đoàn đã gặp hai đồng chí Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống nhưng vì đang bệnh nặng không làm việc được đã yêu cầu đoàn làm việc với tôi (Năm Thi). Tiếp theo đoàn đã hai lần làm việc tại nhà riêng của tôi. Cả ba lần làm việc với đoàn, tôi đều có ký vào biên bản và đoàn hứa sẽ giao lại biên bản cho tôi để công bố cho hai đồng chí Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống được rõ. Nhưng đoàn vẫn không trả lại biên bản cho đến khi hai đồng chí Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống qua đời vẫn không rõ các nội dung biên bản đó. Ngày 15/09/2005 đoàn quay lại gặp tôi lần thứ tư cũng không cung cấp biên bản đã làm việc như lời hứa.<br /><br />Trước đó Lê Đức Anh cùng thư ký Khuất Biên Hoà vào bệnh viện Thống Nhất thăm đồng chí Phạm Văn Xô. Lê Đức Anh hỏi đồng chí Xô: “Nghe nói anh có thư gởi Trung ương Đảng phải không?” đồng chí Phạm Văn Xô trả lời “Đúng, đây là vấn đề lịch sử của Đảng”. Thế mà Khuất Biên Hoà đã lược ghi cuộc gặp này trên báo Hà Nội Mới số ra ngày 14/07/2005 không đưa ra ý kiến này. Có lẽ đó cũng là lịch sử chính trị Lê Đức Anh!<br /><br />Qua ba lần đoàn cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương vào làm việc với tôi đều không nhằm làm sáng rõ nội dung thư 03/02/2005 của ba chúng tôi về lịch sử chính trị Lê Đức Anh. Cách làm việc của đoàn đã nhiều lần thể hiện tính chất xét hỏi, điều tra, thậm chí có cả lời lẽ rúng ép, dọa dẫm đối với tôi, một Đảng viên đã 65 tuổi Đảng, người đã nắm vững lịch sử chính trị Lê Đức Anh từ trước 1945 cho đến khi là Chủ tịch nước, là Cố vấn Trung ương Đảng. Đoàn này làm việc với tôi đầy dụng ý nhằm bảo vệ Lê Đức Anh, chứ không phải tìm hiểu thêm chứng cứ về 6 vấn đề của Lê Đức Anh mà chúng tôi đã đưa ra để giải quyết làm sáng tỏ nhằm bảo vệ uy tín của Đảng.<br /><br />Nay vì đã ký các biên bản làm việc với đoàn cán bộ của Ban Tổ chức Trung ương nhưng đoàn không giữ lời hứa gởi lại biên bản, thực hiện di nguyện của hai đồng chí Xô và Cống đã qua đời, tôi hoàn toàn không chịu trách nhiệm về nội dung các biên bản đó. Tôi bác bỏ các biên bản đó vì đã hơn 3 tháng đoàn vẫn không gởi biên bản có chữ kỹ của Ban Tổ chức Trung ương cho tôi. Đã có tài liệu đưa ra hai bản lý lịch tự khai của Lê Đức Anh. Bản thứ nhất trước Đại hội 4 tháng 11/1976 Lê Đức Anh khai: “Thành phần gia đình trung nông - Bản thân viên chức - Tham gia cách mạng 1937. Vào Đảng 07/1945 - Chính thức 08/1945”. Bản thứ hai 04/1986 để bước vào Đại hội 6 Lê Đức Anh khai: “Thành phần gia đình trung nông - Bản thân công nhân - Ngày và nơi tham gia cách mạng 1937 - Ngày nhập ngũ 08/1945 - Ngày vào Đảng 30/05/1938 - Ngày chính thức 02/08/1938”. Trong bản tóm tắt lý lịch tự khai thứ nhất 11/1976, Lê Đức Anh ghi rõ: “Chưa sinh hoạt Chi bộ”. Như vậy rõ ràng cả hai lần tự khai lý lịch để vào Đại hội 4 và 6, Lê Đức Anh đều khai “tiền hậu bất nhất”, đều thừa nhận là chưa sinh hoạt Chi bộ, thì làm gì có kết nạp, có công nhận chính thức là Đảng viên?<br /><br />Dựa trên sự hiểu biết rõ ràng về lịch sử chính trị Lê Đức Anh từ 02/1945 tôi và hai đồng chí Phạm Văn Xô và Đồng Văn Cống đã nói rõ trên thư ngày 03/02/2005 về 6 vấn đề của Lê Đức Anh, nay xin kiến nghị đến Ban chấp hành Trung ương khoá 9 tại Hội nghị Trung ương 13 như sau:<br /><br />1. Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 9 có trách nhiệm bằng tài liệu lưu trữ về lịch sử chính trị của Lê Đức Anh và bằng thư của ba chúng tôi là nhân chứng lịch sử chính trị Lê Đức Anh là đầy đủ cơ sở vật chứng và nhân chứng để xử lý Lê Đức Anh theo Điều lệ Đảng hiện hành. Điều 36 mục 3 Điều lệ Đảng hiện hành đã quy định: “Ban chấp hành Trung ương quyết định các hình thức kỷ luật Đảng viên, kể cả Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị”. Với Lê Đức Anh dù đã là nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước, có quân hàm Đại tướng nay chỉ là một Đảng viên hưu trí mà lý lịch tự khai lần đầu bất nhất và chưa sinh hoạt Chi bộ, đã kết luận là man khai lý lịch thì hình thức kỷ luật là không công nhận là Đảng viên, không cần và không thể áp dụng Điều 39 về 9 bước xử lý kỷ luật Đảng viên như điều lệ hiện hành được. Nếu trong Ban chấp hành Trung ương khoá 9 có đồng chí Ủy viên Trung ương nào là nhân chứng nơi kết nạp, nơi công nhận chính thức là Đảng viên của Lê Đức Anh hãy lên tiếng để Ban chấp hành Trung ương khoá 9 công bố công khai minh chứng cho Lê Đức Anh.<br /><br />2. Lý lịch Lê Đức Anh tự khai như nói ở trên, cơ sở nào để xác định tuổi Đảng của Lê Đức Anh là 60 tuổi? Cơ quan nào đã đề nghị công nhận và ai đã ký quyết định công nhận Lê Đức Anh là 60 tuổi Đảng chắc Ban Tổ chức Trung ương khoá 9 còn lưu trữ đầy đủ hãy lấy ra công khai tại Hội nghị Trung ương 13 để Ban chấp hành Trung ương khoá 9 xử lý trách nhiệm cho dù người đó đã nghỉ hưu?<br /><br />3. Hội nghị Trung ương 13 của Ban chấp hành Trung ương khoá 9 cần công khai nội dung các biên bản của Đoàn cán bộ Ban tổ chức Trung ương đã làm việc với tôi để thấy rõ quan điểm trước sau như một, từ 1945 hay từ 1986 đến nay tôi đều nhất quán đánh giá lịch sử chính trị Lê Đức Anh chỉ là một Đảng viên tự khai nên chưa sinh hoạt Chi bộ nào, là người xuất thân từ một tên cai đồn điền, đã phạm nhiều tội lỗi trong thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp và phạm nhiều sai lầm 10 năm ở Campuchia. Nếu Ban chấp hành Trung ương khoá 9 không công khai và cung cấp các biên bản của đoàn cán bộ Ban tổ chức Trung ương đã làm việc với tôi càng chứng tỏ dư luận trong Đảng hiện nay về thế lực của Lê Đức Anh và Đỗ Mười đã và đang làm cho nội tình Trung ương Đảng bị phân hoá, uy tín của Ban chấp hành Trung ương giảm sút đối với toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.<br /><br />4. Nếu các vụ chính trị nghiêm trọng mà các khoá trước đã bàn giao lại cho khoá 9 và khoá 9 đã mấy kỳ Hội nghị Trung ương của Ban chấp hành Trung ương đều khoanh lại, tôi kiến nghị Ban chấp hành Trung ương khoá 9 tại Hội nghị Trung ương 13 không được khoanh lại mà phải giải quyết dứt điểm trước Đại hội 10, không được bàn giao lại Đại hội 10 được nữa! Đồng thời Hội nghị Trung ương 13 cũng cần vạch rõ lý do vì sao các kỳ Hội nghị Trung ương trước cứ khoanh lại, để xem xét tư cách một số Ủy viên Bộ Chính trị mà dư luận cho là phe cánh của Lê Đức Anh, Đỗ Mười phải không?<br /><br />Kết luận: Dù chúng tôi đã ba người ký tên gởi thư ngày 03/02/2005 đến Ban chấp hành Trung ương khoá 9 nay hai người đã qua đời, tôi (Năm Thi) dù đã ngoài 65 tuổi Đảng, đã 86 tuổi đời luôn sát cánh cùng nhiều đồng chí đã đấu tranh từ mặt trận Việt Minh, trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ ở Nam bộ, hễ tim còn đập còn tiếp tục đấu tranh bảo vệ Đảng bảo vệ chế độ.<br /><br />Trải qua hai cuộc kháng chiến, 30 năm đã hơn 3 triệu người hy sinh trong đó rất nhiều Đảng viên Cộng sản Việt Nam để giành độc lập thống nhất đất nước, không thể và không cho phép một thế lực nào tìm cách ngăn cản mọi tố cáo vạch trần của tôi về lịch sử chính trị Lê Đức Anh đã chui sâu leo cao, gây ra bao vụ việc chính trị nghiêm trọng, gây bè phái trong lãnh đạo Trung ương Đảng và quân đội, chống lại người chân chính như tôi và nhiều đồng chí khác.<br /><br />Ban chấp hành Trung ương khoá 9 không giải quyết dứt điểm các vụ chính trị nghiêm trọng và lý lịch chính trị Lê Đức Anh - Đỗ Mười là có tội với bao nhiêu người đã hy sinh vì sự nghiệp của Đảng 75 năm qua, là có tội với lịch sử vẻ vang của Đảng đã để trong Đảng tồn tại những Trung ương Ủy viên như Lê Đức Anh - Đỗ Mười. Khoá 9 không xử lý dứt điểm thì lịch sử dù 10 năm, 20 năm nữa sẽ phán xét Ban chấp hành Trung ương khoá 9 là thiếu trách nhiệm, là không cương quyết giải quyết dứt điểm để làm mất lòng tin của cán bộ Đảng viên trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Trên đây là toàn bộ nội dung thư chất vấn và kiến nghị của tôi xin gởi đến đồng chí Tổng Bí thư - Bộ Chính trị và Ban chấp hành Trung ương khoá 9 tại Hội nghị Trung ương 13 để xem xét giải quyết và trả lời. Đồng gởi đến các đồng chí lão thành cách mạng để thấy rõ tâm nguyện đấu tranh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ của tôi và các đồng chí ở Nam Bộ.<br /><br />Chúc Hội nghị Trung ương 13 của Ban chấp hành Trung ương Khoá 9 thành công tốt đẹp.<br /><br />Trân trọng kính chào.<br /><br />Đảng viên ký tên<br /><br />Nguyễn Văn Thi<br /><br />Địa chỉ : 20B 88 Cư xá Nguyễn Trung Trực<br />Đường 3/2 - Quận 10 – Thành phố Hồ Chí Minh<br />Điện thoại : (08) 8655878Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-19778353124177922342009-08-06T22:58:00.002-07:002009-08-06T23:00:55.300-07:00No26: Thư phê bình và kiến nghị Gửi Hội nghị lần thứ 14 BCHTW ĐảngTP Hồ Chí Minh, ngày 03 tháng 02 năm 2006<br /><br />Kính gửi :<br />- Tổng Bí thư và Bộ Chính trị<br />- Uỷ ban kiểm tra Trung ương.<br />- Ban chấp hành Trung ương khoá 9.<br /><br />Đồng kính gửi :<br />- Bí thư Thành phố và Đoàn đại biểu dự đại hội 10 của 64 tỉnh thành cả nước.<br />- Các đồng chí Đại tướng Võ Nguyên Giáp<br />- Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh<br />- Các đồng chí lão thành cách mạng<br />- Các Tướng lĩnh trong quân đội ở các quân khu<br />và Hội Cựu chiến binh 64 tỉnh thành cả nước.<br /><br />Tôi Nguyễn Văn Thi (Năm Thi), sinh năm 1920, vào Đảng năm 1940, nguyên Uỷ viên Ban cán sự Đảng, Uỷ viên Tỉnh uỷ, Uỷ viên Thường vụ Tỉnh uỷ Thủ Dầu Một (Nay là tỉnh Bình Dương - Bình Phước).<br /><br />Từ năm 1942 đến 1946:<br />- Chi đội trưởng Chi đội 1 Liên trung đoàn 301 - 310.<br />- Tư lệnh và Thường vụ đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1950.<br />- Bí thư Đảng bộ nhà tù Côn Đảo 1953 (thời chống Pháp).<br />- Chủ nhiệm Hậu cần Bộ Chỉ huy miền thời chống Mỹ.<br />- Nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh.<br /><br />Căn cứ Mục 3 Điều 3 Điều lệ Đảng hiện hành, tôi có thư phê bình và kiến nghị này gửi đến Hội nghị Trung ương 14 nội dung như sau :<br /><br />I. Phê bình:<br /><br />Tôi là một Đảng viên lão thành cách mạng vào Đảng và hoạt động từ trước 1945 đã được nhận huy hiệu 60 năm tuổi Đảng cách đây 6 năm. Còn các đồng chí từ Tổng Bí thư đến các Uỷ viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 đều nhỏ hơn tôi hàng chục tuổi đời, nhưng các thư từ ý kiến của người cao tuổi đời, tuổi Đảng như tôi cũng như một số đồng chí khác chưa lần nào được các đồng chí trả lời theo quy định của Điều lệ Đảng. Từ lá thư đầu 1986 gửi Trung ương khoá 6 đến nay là khoá 9 tôi đã gửi tất cả 6 thư mà không một nội dung nào được xem xét giải quyết và trả lời. Nay bằng thư này tôi xin trực tiếp phê bình đồng chí Tổng Bí thư và các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Trung ương 9 đã hành xử không dân chủ đối với tôi và nhiều đồng chí khác từng gửi thư đến Trung ương Đảng đều không được giải quyết trả lời, chứng tỏ ngay các đồng chí ở Trung ương Đảng đã vi phạm điều lệ Đảng đã ban hành. Nếu phê bình này các đồng chí Trung ương Đảng không tiếp thu sửa chữa, thì chính các đồng chí đã làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình mất tác dụng, không gương mẫu cho Đảng viên trong toàn Đảng noi theo.<br /><br />II. Kiến nghị:<br /><br />Sau 20 năm đổi mới, Ban chấp hành Trung ương 9 chỉ mới tổng kết đánh giá về các mặt kinh tế - chính trị - xã hội mà chưa đánh giá đầy đủ kết quả đổi mới về con người tức là đổi mới về nhân sự của hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước. Vì thế đồng thời với thành tựu kinh tế vấn tiếp tục xẩy ra nhiều bức xúc về quản lý kinh tế và xã hội trong đời sống người dân và nhiều bức xúc về chính trị về Nhà nước trong đông đảo Đảng viên. Đó là nguyên nhân sâu xa dẫn đến thực trạng khiếu kiện ngày càng nhiều trong dân và chất vấn kiến nghị ngày càng nhiều trong Đảng đối với Trung ương. Hội nghị Trung ương 14 thực sự tiếp tục con đường đổi mới cần phải mạnh bạo tự mổ xẻ ngay trong nội bộ từ Bộ Chính trị đến Ban chấp hành, từ Tổng Bí thư đến từng Uỷ viên Trung ương để cương quyết loại bỏ những uỷ viên đã sai phạm dù trực tiếp hay gián tiếp ở cương vị người đứng đầu các lĩnh vực, các địa phương, từ các bộ, ngành đến các tỉnh thành ra khỏi cương vị lãnh đạo, không được tái đề cử vào khoá 10. Hội nghị Trung ương 14 làm được như vậy mới thực hiện được ý nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam là muốn có chủ nghĩa xã hội trước hết cần phải có con người xã hội chủ nghĩa.<br /><br />Xuất phát từ đó Hội nghị Trung ương 14 là hội nghị cuối cùng giải quyết về nhân sự chuẩn bị cho Đại hội 10, tôi xin kiến nghị cụ thể các vấn đề sau:<br /><br />1. Nếu nhiệm kỳ 9 Ban chấp hành Trung ương không giải quyết dứt điểm các vụ án chính trị siêu nghiêm trọng đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và ba chúng tôi là Phạm Văn Xô - Đồng Văn Cống - Nguyễn Văn Thi và nhiều Đảng viên lão thành cách mạng trong Đảng, trong quân đội đã có thư gửi đến Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 9 từ các Hội nghị Trung ương lần thứ 10, 11, 12, 13 càng chứng tỏ các đồng chí chưa làm tròn nhiệm vụ của người Đảng viên đã quy định tại Điều lệ hiện hành. Trách nhiệm đó trước hết thuộc về người đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư đến Bộ Chính trị mà tôi và nhiều Đảng viên trong cả nước cho rằng Trung ương Đảng khoá 9 đã tiếp tục duy trì ảnh hưởng của hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh vì nể nang hoặc cố tình để bảo vệ chức danh của mình nhờ hai ông này mà có được. Không đưa ra giải quyết các vụ án này là che dấu khuyết điểm của Trung ương 9 đã tiếp tục kéo dài từ khoá 4 đến nay để bảo vệ quyền lợi cá nhân của một số người đã được tạo ra, bất chấp uy tín của toàn Đảng và tiếp tục không muốn đổi mới để cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước bằng thay đổi nhân sự lãnh đạo Tỉung ương Đảng thật sự là những người trong sạch, có đức, có tài, có uy tín trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Hậu quả sẽ là Đảng viên chân chính cả nước sẽ tiếp tục đấu tranh để chỉ rõ trách nhiệm thuộc về Ban chấp hành khoá 9 mà người đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư. Tôi kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 cần làm rõ trách nhiệm giải quyết các vụ án này của Ban chấp hành Trung ương 9 trước khi bàn đến nhân sự khoá 10. Có như vậy mới thấy rõ trong Ban chấp hành khoá 9 ai là người có đủ tư cách vào khoá 10 từ đồng chí Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương?<br /><br />2. Để có được sự đổi mới về nhân sự cho khoá 10, tôi kiến nghị từ Tổng Bí thư đến từng Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 phải có bản tự kiểm điểm theo 3 nội dung sau đây, trước khi Ban chấp hành Trung ương 9 có bản kiểm điểm cả nhiệm kỳ.<br /><br />2.1. Về tài sản cá nhân và gia đình của từng Ủy viên Bộ Chính trị đến Ủy viên Ban chấp hành Trung ương phải tự kê khai theo đúng quy định tại Nghị định 64 và Điều 11 Nghị định 13 sửa đổi bổ sung của Chính phủ đã ban hành theo Pháp lệnh chống tham nhũng. Trong đó có quy định bản tự kê khai phải công khai trong toàn Đảng để Đảng viên giám sát phát hiện. Có như vậy mới làm sáng tỏ ý kiến của Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng-Nguyễn Văn Chi đã trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Giải phóng số ra ngày 07/6/2005 về các trường hợp đem tiền gửi ở ngân hàng nước ngoài hoặc đầu tư cho vợ con kinh doanh bất động sản, mua cổ phiếu lớn, tiêu xài hoang phí, đi du lịch, cho con du học Mỹ v.v... trong Ban chấp hành Trung ương có những ai? (Xem bài “Chống những nguy cơ bên trong đối với một Đảng cộng sản cầm quyền” của giáo sư Đặng Xuân Kỳ, trên tạp chí Thông tin công tác tư tưởng lý luận số 12/2005). Qua tự kê khai tài sản sẽ làm sáng tỏ trường hợp “năm nhà ba vợ vẫn là Trung ương” là ai trong Bộ Chính trị khoá 9? Hội nghị Trung ương 14 cần coi tự kê khai tài sản là tiêu chuẩn hàng đầu về đạo đức lối sống để lựa chọn nhân sự cho Đại hội 10.<br /><br />2.2. Trong nhiệm kỳ 9 cả nước từ các bộ ngành thuộc Chính phủ đến các tỉnh thành ở đâu, cấp nào cũng đều có Ủy viên Bộ Chính trị hoặc Ủy viên Ban chấp hành Trung ương đứng đầu Đảng chính quyền nhưng hầu như ở đâu cũng để xẩy ra nhiều vụ tiêu cực tham nhũng làm thất thoát công quỹ mà lại do nhân dân tố giác, báo chí phanh phui. Có vụ đã xử thành án như vụ Năm Cam, Lã Thị Kim Oanh... có vụ đang tạm giam để điều tra như vụ ở Bộ Thương mại, Bộ Giao thông vận tải... có vụ chờ thanh tra điều tra như vụ các công trình SEAGAME 22, vụ Phú Mỹ Hưng ở Thành phố Hồ Chí Minh... Tất cả chưa vụ nào xử lý trách nhiệm người đứng đầu là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương đã lãnh đạo nơi để xẩy ra vụ việc đó. Vì thế năm sau số vụ việc tai tiếng nhiều hơn năm trước, tham nhũng lãng phí từ tệ nạn trở thành quốc nạn. Chống tham nhũng lãng phí bằng Pháp lệnh không hiệu quả rồi chống bằng Bộ luật sắp ban hành nhưng vẫn không vạch mặt chỉ tên được người đứng đầu chịu trách nhiệm là ai? Vì thế dù luật đã thông qua nhưng vẫn là Ban chỉ đạo như Pháp lệnh, không có một tổ chức quốc gia chống tham nhũng, vẫn cứ do Thủ tướng Chính phủ làm trưởng ban để “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Không giám noi theo các nước trong khu vực khi họ đã có hẳn một cơ quan chống tham nhũng cấp quốc gia rất có hiệu quả. Tất cả Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 cần kiểm điểm trách nhiệm lãnh đạo Đảng đã để các đơn vị thuộc phạm vi mình quản lý có vụ việc xẩy ra dù đã hoặc chưa bị xử lý cũng phải tự rút hoặc Hội nghị Trung ương 14 phải loại ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành khoá 10.<br /><br />2.3. Từ sau Hội nghị Trung ương 11 dư luận công khai vạch ra thực trạng bè cánh ngay trong Bộ Chính trị gọi là bè lũ 6 tên hoặc 8 tên. Có đảng viên hưu trí tại Thành phố Hồ Chí Minh gửi thư chất vấn và kiến nghị đến Hội nghị Trung ương 12 đã chỉ rõ đó là 6 đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị gồm các đồng chí: Trần Đức Lương, Trần Đình Hoan, Phạm Văn Trà, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Hồng Anh, Phan Diễn. Vì thế mà thế lực của bè cánh này đã thách thức dư luận qua hai sự việc họ đã làm là:<br /><br />a) Tung ra Bản báo cáo tại Hội nghị Đảng uỷ quân sự Trung ương mở rộng ngày 24/8/2004 để gọi những đảng viên lão thành đòi giải quyết các vụ án chính trị siêu nghiêm trọng và vụ Đảng tịch Lê Đức Anh là phần tử cấp tiếp, đòi khai trừ Đảng cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh.<br /><br />b) Cuối năm 2005, họ lại cho xuất bản và phát hành cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh” để Đỗ Mười viết lời tựa ca tụng Lê Đức Anh là “Nhà chính trị tầm cỡ - nhà quân sự lớn” nhằm tạo thanh thế cho bè cánh đang tại chức lọt vào Ban chấp hành khoá 10 theo mưu đồ của Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Hội nghị Trung ương 14 cần làm rõ cái gọi là bè lũ 6 tên hay 8 tên đó là những ai? Ai là người chịu trách nhiệm trong Bộ Quốc phòng đưa ra Bản báo cáo nói trên? Ai là người duyệt và cho xuất bản cuốn sách “Đại tướng Lê Đức Anh”? Tất cả những người đó Hội nghị Trung ương 14 phải loại họ ra khỏi danh sách đề cử vào Ban chấp hành khoá 10.<br /><br />Nếu không xuất phát từ 3 nội dung tự kiểm điểm nói trên Hội nghị Trung ương 14 không đủ cơ sở pháp lý và tính Đảng để lựa chọn những con người trong sạch về lối sống, đủ đức, đủ tài, đủ tín nhiệm vào khoá 10 cho dù người đó ở độ tuổi nào. Đồng thời Hội nghị Trung ương 14 còn phải đưa ra nội dung các thư chất vấn và kiến nghị, các phát biểu của các Đảng viên lão thành đến các Đảng viên hưu trí, Cựu chiến binh cả nước đã gửi, đã nêu đích danh một số Ủy viên Bộ Chính trị và cả những người được bầu đi dự đại hội 10 để Uỷ ban Kiểm tra Trung ương xem xét có đủ tư cách dự đại hội 10 chứ chưa nói là đề cử vào khoá 10. Nhiều phát biểu về những con người mà dư luận đánh giá là “hổ phụ không sinh hổ tử” lại sinh ra “cẩu tử” hoặc có người được coi là “nhân vật số 1” trong Bộ Chính trị hiện nay; trước kỳ Đại hội Đảng các tỉnh thành, các bộ ngành người này đã đưa ra báo giá cho mỗi chức danh đứng đầu ít nhất là 30 tỷ đồng. Đó là đồng chí Nguyễn Khoa Điềm hiện là Ủy viên Bộ Chính trị - Trưởng ban Tư tưởng văn hoá Trung ương sinh ra từ người cha là nhà hoạt động cách mạng Nguyễn Khoa Văn tức Nguyễn Hải Triều và đồng chí Nguyễn Chí Vịnh được bầu là đại biểu dự Đại hội 10 sinh ra từ người cha là Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là người liên quan đến các vụ án siêu nghiêm trọng Sáu Sứ, T4 nhưng vẫn được phe cánh bao che phong hàm Trung tướng để mưu đồ lọt vào Trung ương Đảng khoá 10. Đó là đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị - Trưởng ban tổ chức Trung ương Trần Đình Hoan với quá nhiều tai tiếng từ trước Đại hội 9 về quyền thế bè cánh, trước đại hội Đảng các địa phương các ngành về giá cả từng chức danh đến quan hệ nam nữ mập mờ ở Quảng Ninh mà cán bộ hưu trí nào ở đó cũng biết rõ.<br /><br />Vấn đề nhân sự không chỉ là sự bàn bạc đi đến nhất trí bằng bỏ phiếu mà phải thẳng thắn đánh giá từng con người, từng cương vị trong nhiệm kỳ 9 tại Hội nghị Trung ương 14, là trách nhiệm lịch sử của Ban chấp hành Trung ương 9 phải kiên quyết loại bỏ những Ủy viên Trung ương khoá 9 là bè phái, là người nhiều tai tiếng không để một ai lọt vào khoá 10.<br /><br />Hội nghị Trung ương 14 phải sàng lọc cho được những người đề cử vào khoá 10 để Ban chấp hành khoá 10 thực sự là bộ máy lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đủ năng lực đổi mới bằng cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước tiến kịp với cải cách và phát triển kinh tế. Bộ máy Đảng cộng sản Việt Nam khoá 10 phải thực sự cải cách hệ thống chính trị và quản lý Nhà nước để chịu trách nhiệm toàn diện, lãnh đạo toàn diện, không tiếp tục thực trạng vừa là Đảng vừa là Nhà nước; càng không thể Đảng trong Đảng, Nhà nước trong Nhà nước. Tất cả phải rạch ròi về mặt Đảng lãnh đạo giữa 3 cơ quan: Lập pháp, Hành pháp và Tư pháp mới thực sự là một đảng cầm quyền không còn là độc quyền như hiện nay. Đảng cộng sản Việt Nam muốn đảm bảo chế độ chính trị có một đảng thì bộ máy lãnh đạo của Đảng phải xây dựng các đoàn thể quần chúng trở thành người đại diện thật sự và có thẩm quyền của các tầng lớp nhân dân, chứ không thể tồn tại như hiện nay họ chỉ biết đồng tình cho dù trong lòng con bất bình và biến họ thành những cánh tay nối dài của Đảng. Đó mới thực sự là Đảng của toàn dân, được dân tín nhiệm, một lòng theo Đảng theo Bác Hồ như lúc Bác còn sống.<br /><br />3. Để tiếp tục đổi mới về nhân sự, Hội nghị Trung ương 14 cần bãi bỏ các thông lệ đã tồn tại nhiều kỳ qua khiến Đảng ngày càng trở thành độc quyền không dân chủ. Kiến nghị bãi bỏ 4 nội dung sau :<br /><br />a) Bãi bỏ việc chia các chức danh Tổng Bí thư - Chủ tịch Quốc hội - Chủ tịch nước - Thủ tướng Chính phủ cho đủ mặt của 3 miền Bắc - Trung - Nam.<br /><br />b) Bãi bỏ việc Ban chấp hành Trung ương bầu Tổng bí thư, bầu Bộ Chính trị, bầu Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra và bầu Uỷ ban Kiểm tra. Tất cả các chức danh này phải do Đại hội 10 bầu trực tiếp, Hội nghị Trung ương 14 có trách nhiệm đề cử mỗi chức danh Tổng Bí thư và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra là 3 người để Đại hội lựa chọn.<br /><br />c) Bãi bỏ trình tự đã có lâu nay là sau Đại hội Đảng lựa chọn được các chức danh nói trên mới tổ chức bầu cử Quốc hội, bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp. Bãi bỏ trình tự này để chấm dứt dư luận trong dân mỉa mai là: “Đảng cử dân bầu”. Muốn vậy Đại hội 10 phải sửa đổi Điều lệ Đảng để Ban chấp hành khoá 10 phải chỉ đạo bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp trước khi chuẩn bị Đại hội 11. Có như vậy để thông qua kết quả bầu cử người dân trực tiếp lựa chọn được người đại diện cho mình vào các cơ quan lập pháp thì trong Đảng mới lựa chọn được người có uy tín vào cơ quan lãnh đạo của Đảng từ cơ sở đến Trung ương.<br /><br />d) Bãi bỏ không để một Ủy viên Bộ Chính trị hoặc Ủy viên Ban chấp hành Trung ương vừa được dân bầu vào cơ quan lập pháp là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, họ lại vừa nắm giữ các chức quyền ở cơ quan hành pháp và tư pháp như hiện nay.<br /><br />4) Kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 phải đề cử kỳ được ứng cử viên vào chức vụ là Tổng Bí thư và Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra là người đủ hiền tài để đại diện cho nguyên khí quốc gia, có đủ năng lực và trình độ lái con tàu Đảng cộng sản Việt Nam đi tiếp con đường đổi mới để hội nhập quốc tế mà vẫn giứ được độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, đưa Việt Nam thực sự là nước có xã hội công bằng dân chủ văn minh. Chức vụ Tổng Bí thư phải là người đại diện tin cậy cho 2,7 triệu Đảng viên, cho 80 triệu dân và cho cả giai cấp công nhân Việt Nam, không thể để chức vụ này rơi vào bất cứ một Ủy viên Bộ Chính trị hay một Ủy viên Ban chấp hành Trung ương khoá 9 vượt quá tuổi quy định hay dù còn nhỏ một hai tuổi nhưng có quá nhiều tai tiếng đã có từ trước Đại hội 9 đến suốt nhiệm kỳ 9 nhất là trong phe cánh của ông Đỗ Mười - Lê Đức Anh đã làm dư luận trong Đảng bất bình như những người tôi đã nêu danh ở trên.<br /><br />5. Kiến nghị Hội nghị Trung ương 14 sau khi lựa chọn được danh sách nhân sự đề cử vào Ban chấp hành Trung ương khoá 10 và hai chức danh Tổng Bí thư - Chủ nhiệm Uỷ ban Kiểm tra Trung ương cần phải đổi mới để công bố ra toàn Đảng cho mọi Đảng viên trong cả nước biết. Đồng thời cung cấp đường dây nóng cho mọi Đảng viên có quyền góp ý kiến để đại hội 10 rộng đường lựa chọn. Công khai như vậy mới chứng tỏ Đảng thực sự đổi mới, thực sự dân chủ hóa, chấm dứt bệnh cơ cấu và bệnh Đảng hoá về nhân sự.<br /><br />Hội nghị Trung ương 14 phải giải quyết được các kiến nghị nói trên mới thực sự đi tiếp con đường đổi mới, mới chấm dứt được những tồn tại đã kéo dài từ các nhiệm kỳ trước suốt 20 năm đổi mới. Trước hết phải cương quyết sửa đổi Điều lệ Đảng hiện hành để bãi bỏ những quy định cũ nói trên. Hội nghị Trung ương 14 phải đưa ra một danh sách nhân sự Ban chấp hành Khoá 10 để Đại hội 10 lựa chọn sao cho đạt được ý nguyện của 2,7 triệu Đảng viên cả nước là: Đại hội 10 là Đại hội xây dựng, chỉnh đốn Đảng, là Đại hội có quyết sách đưa Luật chống tham nhũng và lãng phí đi vào cuộc sống để xã hội Việt Nam không bị nạn bè phái, quốc nạn tham nhũng lãng phí đẩy đến tận cùng thối nát làm cho chế độ đi đến sụp đổ như Lênin đã chỉ ra.<br /><br />Tôi xin gửi đến Hội nghị Trung ương 14 các kiến nghị trên và đồng gửi đến các đồng chí Bí thư các tỉnh thành và Đoàn đại biểu dự Đại hội 10 của 64 tỉnh thành cả nước, để thông qua các đồng chí xin gửi gắm tất cả các nội dung kiến nghị là ý nguyện tha thiết nhất của một Đảng viên lão thành đã 66 tuổi Đảng, 86 tuổi đời mong sao qua từng Đại biểu dự Đại hội 10 sáng suốt lựa chọn được một Ban chấp hành Trung ương Đảng thật sự trong sạch vững mạnh và một Tổng Bí thư là người cầm lái con tàu Đảng cộng sản Việt Nam phải là một hiền tài là nguyên khí quốc gia.<br /><br />Trân trọng kính chào và chúc Hội nghị Trung ương 14 thành công.<br /><br />Người viết: Đảng viên lão thành<br /><br />Nguyễn Văn Thi<br />ĐC : 20B88 Cư xá Nguyễn Trung Trực<br />Đường 3/2 Quận 10 TP Hồ Chí Minh<br />ĐT : 08.8655878Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-62842214280480510852009-08-06T22:58:00.001-07:002009-08-06T22:58:45.862-07:00No25: Thư chất vấn Đỗ Mười và Lê Đức AnhNha Trang, ngày 24/10/2005<br /><br />Kính gửi:<br />- Các đồng chí Bộ Chính trị, Ban Bí thư TW Đảng<br />- Ông Đỗ Mười và ông Lê Đức Anh.<br />- Tổng biên tập báo Nhân dân, Báo QĐND Việt Nam<br />- Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam và ông Khuất Biên Hoà<br /><br />Thư gửi "Chất vấn và tranh luận với hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh" về cuốn sách ký sự chân dung "Đại tướng Lê Đức Anh".<br /><br />Tôi Nguyễn Văn Bé - 82 tuổi (Giáp Tý) tham gia cách mạng Tiền cách mạng tháng 8/1945 đã được Đảng và Nhà nước công nhận là cán bộ tiền khởi nghĩa và đã hưởng chế độ tiền khởi nghĩa. Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng, nguyên Quyền trưởng ban Đại diện hưu trí, Uỷ viên Mặt trận thành phố Nha Trang (20 năm tham gia công tác Mặt trận được tặng huy chương vì sự nghiệp Đại đoàn kết dân tộc), hiện nay Đảng viên, hưu trí, Cựu chiến binh ở số 9 Phan Bội Châu, thuộc Đảng bộ Phường Xương Huân, Thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà.<br /><br />Trước hết tôi báo cáo với Bộ chính trị, Ban Bí thư với trách nhiệm là một Đảng viên, căn cứ vào điều lệ Đảng đã quyết định ở Điều nhiệm vụ, quyền hạn của Đảng viên "Đảng viên có quyền chất vấn các tổ chức, cá nhân từ lãnh đạo ở Trung ương đến cơ sở Đảng".<br /><br />Ngày 07/10/2005 tại Hà Nội, Nhà xuất bản QĐND và Tổng Công ty Phát hành sách tổ chức họp báo giới thiệu cuốn sách ký sự chân dung "Đại tướng Lê Đức Anh" của tác giả Khuất Biên Hoà, người viết lời tựa là ông Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Đảng cộng sản Việt Nam.<br /><br />Lời tựa cuốn sách này có 2 vấn đề mà tôi cần chất vấn và tranh luận với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh.<br /><br />1. Nội dung cuốn sách chia thành 5 phần theo "Quá trình thời gian từ những ngày đầu tiên cách mạng tháng 8/1945 " đến khi hoà bình, thống nhất đất nước và thời kỳ đổi mới sau này (gửi kèm theo số báo nhân dân).<br /><br />2. Ông Đỗ Mười viết lời tựa nhận định "Ông Lê Đức Anh là nhà chính trị tầm cỡ, nhà Quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta ".<br /><br />Hiện nay tôi chưa có cuốn sách này nên nội dung ra sao thì sau này có vấn đề gì nổi cộm không đúng với lịch sử hoạt động cách mạng của ông Lê Đức Anh thì tôi sẽ tiếp tục chất vấn và tranh luận với hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh.<br /><br />A. Tôi chất vấn và tranh luận với hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh ở nội dung "Quá trình thời gian (hoạt động cách mạng) từ "Những ngày đầu tiên cách mạng tháng 8/1945 của ông Lê Đức Anh".<br /><br />Căn cứ vào "Pháp lệnh người có công với cách mạng" mà Quốc hội đã thông qua có quy định về đối tượng:<br /><br />1. Cán bộ hoạt động cách mạng từ 01/12/1944 trở về trước thì gọi là "cán bộ cách mạng lão thành ưu đãi, viết tắt cán bộ ưu đãi có nhiều chế độ, chính sách rất ưu đãi.<br /><br />2. Cán bộ hoạt động từ ngày 01/01/1945 đến trước ngày khởi nghĩa 19/8/1945 được Đảng công nhận, gọi "cán bộ tiền khởi nghĩa" về chế độ, chính sách có ít hơn.<br /><br />Ở Nha Trang, cán bộ cách mạng lão thành ưu đãi, cán bộ tiền khởi nghĩa, cán bộ cao cấp Cựu chiến binh và dân chính Đảng, trong đõ có tôi thảo luận rất kỹ về từ ngữ câu lời tựa quá trình hoạt động cách mạng của ông Lê Đức Anh "thời gian từ những ngày đầu tiên cách mạng tháng 8/1945" thì căn cứ vào Pháp lệnh người có công quy định thì ông Lê Đức Anh ở đối tượng thứ hai "Cán bộ tiền khởi nghĩa chứ không phải ở đối tượng" cán bộ hoạt động từ 31/12/1944 trở về trước, tên gọi ở pháp lệnh "cán bộ cách mạng lão thành ưu đãi, viết tắt "cán bộ ưu đãi". Chúng tôi thống nhất là lời tựa của ông Đỗ Mười ở cuốn sách chân dung "Đại tướng Lê Đức Anh" thừa nhận công khai "ông Lê Đức Anh hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước ngày khởi nghĩa 19/8/1945, nếu được Đảng công nhận thì chỉ công nhận là "cán bộ tiền khởi nghĩa" chứ không phải công nhận là "cán bộ cách mạng lão thành cách mạng "ưu đãi", viết tắt "cán bộ ưu đãi".<br /><br />Vậy tôi xin chất vấn hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh: "Tại sao ông Lê Đức Anh lại được Đảng tặng huy hiệu 60 năm tuổi Đảng từ năm 1998, tức là ông Lê Đức Anh vào Đảng từ năm 1938 là hoàn toàn không đúng ".<br /><br />Cuốn sách chân dung "Đại tướng Lê Đức Anh" mà ông Đỗ Mười viết lời tựa và tác giả Khuất Biên Hoà viết theo lời kể của ông Lê Đức Anh. NXB Quân đội nhân dân Việt Nam và Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam cũng đã thừa nhận là ông Lê Đức Anh chỉ tham gia cách mạng từ "Những ngày đầu tiền khởi nghĩa cách mạng tháng 8/1945" chớ không có tham gia cách mạng từ 31/12/1944 trở về trước .<br /><br />Trước đây tôi có thăm 2 đồng chí cán bộ cách mạng lão thành có uy tín nhất ở nam bộ: đồng chí Phan Văn Xô tức Hai Xô và đồng chí Đồng Văn Cống, trung tướng có tâm sự với tôi là 2 đồng chí đã nhiều lần viết thư phản ảnh với các đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu, Nông Đức Mạnh và Bộ Chính trị của các thời kỳ Lê Đức Thọ, Nguyễn Đức Tâm, Lê Phước Thọ, Đỗ Quang Thắng và các uỷ viên: Phạm Văn Đồng, Nguyễn Thị Mỹ v.v... ngày các đồng chí Bộ chính trị ở Đại hội 9 hiện nay về ngày tháng, năm vào Đảng không có Chi bộ nào kết nạp, không có Đảng viên nào giới thiệu ông Lê Đức Anh vào Đảng cộng sản Việt Nam từ 31/12/1944 trở về trước. Kể từ năm 1945 cũng không có Chi bộ nào, không có đảng viên nào giới thiệu kết nạp ông Lê Đức Anh. Nhưng Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khoá trước từ thời đồng chí Lê Duẩn đến Đại hội 9 hiện nay cũng chưa giải quyết, chưa làm sáng tỏ ngày, tháng, năm vào Đảng? Chi bộ nào kết nạp? Hai Đảng viên cũ giới thiệu là ai?<br /><br />Vậy thì hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh trả lời cho tôi và toàn Đảng biết chính xác ngày, tháng, năm vào Đảng? Chi bộ nào kết nạp? Hai Đảng viên nào giới thiệu ông Lê Đức Anh vào Đảng năm 1938 - 1945.<br /><br />Hiện nay dư luận trong toàn Đảng, toàn quân rất thắc mắc về ngày, tháng, năm vào Đảng, ở Chi bộ nào? Ai giới thiệu ông Lê Đức Anh. Tôi cũng đề nghị Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, toàn thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 9 trước khi vào Đại hội X kiên quyết, điều tra xác minh có kết luận rõ ràng, minh bạch để báo cho toàn Đảng biết ngày, tháng, năm vào Đảng? ở Chi bộ nào? Hai Đảng viên là ai kết nạp ông Lê Đức Anh? Tôi cũng đề nghị Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, các đồng chí Bộ chính trị, Ban Bí thư TW Đảng việc cuốn sách "Chân dung Đại tướng Lê Đức Anh" viết quá trình thời gian tham gia cách mạng của ông Lê Đức Anh chỉ từ ngày "đầu tiên cách mạng tháng 8/1845" chớ ông Lê Đức Anh không có tham gia cách mạng từ 31/12/1944 trở về trước là hoàn toàn chính xác.<br /><br />Đó là vấn đề thứ nhất, tôi chất vấn hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh.<br /><br />B. Còn vấn đề thứ hai, tôi cần tranh luận với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh. Ông Đỗ Mười viết lời tựa cuốn sách "chân dung Đại tướng Lê Đức Anh" nhận định rằng "Ông Lê Đức Anh nhà chính trị "tầm cỡ", nhà Quân sự "lớn" của Đảng và Nhà nước ta ".<br /><br />Tôi cũng như toàn Đảng, toàn quân và nhân dân Việt Nam chưa bao giờ thấy, nghe văn bản nào của Đảng và Nhà nước ta từ thời đồng chí Lê Duẩn làm Tổng Bí thư cho đến nay hơn 45 năm nay (1960 cho đến nay), ngay cả trong các Đại hội 6, đổi mới đến Đại hội 9 mà các ông Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, Nguyễn Văn An, Uỷ viên Bộ chính trị, chủ tịch Quốc hội Trần Đức Lương, Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ông Phan Văn Khải, Uỷ viện Bộ Chính trị, thủ tướng Chính phủ chưa bao giờ tôi nghe Tổng Bí thư Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ ra văn bản nào và ngay cả lời phát biểu của các vị trên cũng chưa bao giờ nói trước Quốc hội, nói trong Chính phủ và nói cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân công nhận ông Lê Đức Anh là "Một nhà chính trị có tầm cỡ và một nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước".<br /><br />Như vậy, ông Đỗ Mười viết lời tựa đề trên với nhân danh Đảng và Nhà nước ta hay nhân danh "Nguyên Tổng Bí thư Đảng". Theo tôi, ông Đỗ Mười không thể nhân danh Đảng và Nhà nước để công nhận ông Lê Đức Anh là "Một nhà chính trị có tầm cỡ và một nhà quân sự lớn " được. Vì ông Đỗ Mười với danh nghĩa "Nguyên Tổng Bí thư" tức là ông Đỗ Mười đã thôi giữ chức Tổng Bí thư lâu rồi. Nếu lấy danh nghĩa cá nhân để công nhận ông Lê Đức Anh là "Một nhà chính trị có tầm cỡ và một nhà quân sự lớn" của Đảng và Nhà nước ta là sai lầm và khuyết điểm rất nghiêm trọng vì đã phạm nguyên tắc Đảng, phát ngôn một việc lớn như trên mà tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư và toàn thể Quốc hội, Chủ tịch nước và Chính phủ chưa ra sắc lệnh hoặc ra quy định công nhận ông Lê Đức Anh là "Một nhà chính trị có tầm cỡ và một nhà quân sự lớn" của Đảng và Nhà nước ta.<br /><br />Tôi tranh luận với hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh.<br />A. Về phần nhận định ông Lê Đức Anh là một nhà chính trị có tầm cỡ của Đảng và Nhà nước ta:<br /><br />1. Ông Lê Đức Anh là một nhà chính trị có tầm cỡ thì tầm cỡ như thế nào? Trình độ chính trị của ông Lê Đức Anh đã để lại những tuyển tập về lý luận nào, nói cái gì cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân để nghiên cứu học tập từ trước đến nay? Trình độ chính trị của ông Lê Đức Anh có bằng hoặc hơn các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Lương Bằng, Lê Duẩn, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt, Lê Khả Phiêu kể cả ngay ông Đỗ Mười hay không? Chắc chắn không bằng rồi, như thế làm sao tôn lên là một nhà chính trị có tầm cỡ được? thế mà các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp v.v.. ở trên cũng chưa có Đảng và Nhà nước ta công nhận là nhà chính trị có tầm cỡ. Và bản thân các đồng chí trên cũng chưa bao giờ tự xưng mình như thế.<br /><br />B. Về phần nhận định của ông Đỗ Mười và ông Lê Đức Anh là một nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta:<br /><br />Đối với đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam mà Chủ tịch Hồ Chí Minh ra sắc lệnh ngay từ năm 1948 thì ông Lê Đức Anh làm sao so sánh nổi một trời một vực, nhưng đồng chí Đại tướng, Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam Võ Nguyên Giáp không bao giờ tự xưng mình là "Một nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta", kể cả Quốc hội, Chính phủ, Nhà nước của các thời kỳ cũng chưa bao giờ có văn bản nói: "Đại tướng, Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam Võ Nguyên Giáp là một nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta".<br /><br />Toàn Đảng, toàn quân và toàn dân trong nước và cả thế giới đều biết đến Việt Nam "Nói đến Việt Nam là nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói đến nhà quân sự tài tình của Việt Nam thì nói đến Đại tướng Tổng tư lệnh QĐND Việt Nam Võ Nguyên Giáp".<br /><br />Ông Lê Đức Anh đâu có phải là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời gian hoạt động cách mạng nói chung và chỉ huy quân đội nói riêng thì so sánh với các đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Văn Thái, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Đoàn Khuê... kể cả so sánh với các thượng tướng Trần Văn Trà, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Thiện... thì ông Lê Đức Anh chỉ là bậc đàn em.<br /><br />Nhìn lại chức vụ, cấp bậc quân đội NDVN trong kháng chiến chống Pháp thì ông Lê Đức Anh hoàn toàn không tiếng tăm gì ở trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân. Điều này rất chắc chắn 100% ngay tôi cũng chưa bao giờ nghe tiếng ông Lê Đức Anh trong kháng chiến chống Pháp.<br /><br />Trong kháng chiến chống Mỹ, ông Lê Đức Anh vẫn là cấp dưới của đồng chí thượng tướng Trần Văn Trà, tư lệnh quân giải phóng miền Nam Việt Nam (từ Quảng Bình đến Mũi Cà Mau). Sau khi thống nhất nước nhà, nhờ sự quan tâm của các đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư: Lê Đức Thọ, Uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị, Trưởng ban tổ chức TW Đảng cất nhắc từ Đại tá lên Trung tướng, lên Đại tướng, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, Chủ tịch nước, chỉ có thế thôi. Ông Lê Đức Anh cũng không có để lại những văn kiện gì lớn lao về lý luận quân sự, về chiến lược, chiến thuật quân sự. Ông cũng chưa bao giờ được Đảng và Nhà nước phân công giữ chỉ huy trưởng cấp quân đoàn, đại đoàn trong quân đội. Về giúp đỡ bạn ở Campuchia ông Lê Đức Anh được phân công phụ trách đoàn 779 thì để xẩy ra vụ Siêm Riệp làm cho cán bộ, Đảng viên, kể cả cán bộ cao cấp của Đảng nhân dân cách mạng Campuchia bị thiệt hại rất lớn. Tiếp đến, ra thành lập Tổng cục II, vượt quá quyền hạn Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, vượt quá quyền hạn Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam nên để Tổng cục II dựng lên vụ T4. Tất cả các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt và nhiều uỷ viên Bộ Chính trị trong các thời kỳ đều gán vào cái tội tầy trời "làm CIA cho Mỹ". Vụ Sáu Sứ dựng lên để gán tội cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp là chống Đảng. Vụ đồng chí Võ Thị Thắng, nay uỷ viên TW Đảng, Tổng cục du lịch Việt Nam, gắn cho cái tội "làm CIA cho Mỹ" những vụ việc tầy trời ở trên, các báo Internet đã đăng tải, ngoài cán bộ, Đảng viên, các tướng tá quân đội ra thì người dân thường, ai ai cũng biết cả. Kể các cháu sinh viên cùng biết.<br /><br />Những lời góp ý kiến chân tình, trung thực, có trách nhiệm với Đảng và Nhà nước của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Nguyễn Nam Khánh và các bậc cách mạng lão thành từ trong Nam bộ, Trung bộ, Bắc bộ, từ miền núi đến miền xuôi đều có thư góp ý với tinh thần xây dựng và bảo vệ Đảng gửi cho các đồng chí Bộ Chính trị, Ban bí thư, Ban chấp hành TW khoá 9 để giải quyết cần phải ổn định tình hình tư tưởng trong Đảng, trong quân đội và toàn dân. Nhưng cho đến nay, những vụ việc trên; kể cả lý lịch vào Đảng của ông Lê Đức Anh mà Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban chấp hành TW Đảng khoá 9 chuẩn bị cho Đại hội X cũng chưa giải quyết làm cho tôi cũng như bao Đảng viên bình thường, các bậc lão thành cách mạng, các tướng tá trong quân đội đã nghỉ hưu rất lo lắng.<br /><br />Tôi cứ suy nghĩ vụ ông Nguyễn Hà Phan, cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước khai man lý lịch, dấu Đảng, không trung thực với Đảng nên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, BCH TW Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ lúc bấy giờ kiên quyết, kiểm điểm xử lý khai trừ ông Phan ra khỏi Đảng và cách chức các chức vụ. Nay ông Phan về quê sống cuộc đời người dân bình thường của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.<br /><br />Các vụ việc tầy trời: lý lịch Đảng ông Lê Đức Anh, vụ Tổng vụ II, vụ T4, vụ Sáu Sứ, vụ Võ Thị Thắng thì tại sao Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban chấp hành TW Đảng khoá 9 không giải quyết dứt điểm. Đứng về phương diện trong Đảng thì tôi cho Đảng ta cũng không công bằng lắm. Đảng ta trước đây thì nghiêm minh, kiên quyết kiểm điểm xử lý ông Nguyễn Hà Phan làm cho toàn Đảng, toàn dân rất hoan nghênh và ủng hộ Đảng vô cùng, nay bản thân ông Nguyễn Hà Phan cũng vui vẻ, tự nguyện công nhận việc sai trái của mình và phục tùng nhận kỷ luật một cách nghiêm chỉnh, thái độ đó rất hoan nghênh. Vậy vì cớ nào mà Đảng ta hiện nay lại bỏ qua những vụ việc tày trời như vậy. Đó là hoàn toàn Đảng ta không công bằng trong Đảng thế thì làm sao thực hiện mục tiêu chiến lược mà Đảng ta đề ra "làm cho xã hội công bằng. Câu hỏi "trong Đảng không có công bằng với nhau thì làm gì có xã hội công bằng". Đó là lẽ tất nhiên, Đảng ta và Bác Hồ dạy Đảng viên giáo dục quần chúng "Đảng viên đi trước làng nước sẽ đi ngay sau. Đảng viên phải khổ trước dân để dân sướng trước đã thì dân mới tin, trên các mọi lĩnh vực: chiến đấu thì Đảng viên phải xung phong lên trước, trên lĩnh vực xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thì Đảng viên phải làm gương mẫu, làm đầu tàu lôi cả đoàn tàu, lôi cả phong trào quần chúng, Đảng viên không được ăn cắp của công, ăn cắp của dân, của tập thể thì dân mới tin đi theo Đảng. Nhưng hiện nay, tôi cũng như các bậc lão thành, các tướng tá trong quân đội nghỉ hưu, nhân dân thấy sao cán bộ cao cấp kế cận sau, này như: Trung tướng, Viện phó Viện kiểm sát tối cao, Tổng Giám đốc Đài phát thanh, thường vụ tỉnh uỷ, thị uỷ, thường trực UBND tỉnh, huyện, phường. Tổng Giám đốc đều là Đảng viên bị còng số 8 đưa vào nhà lao bỏ tù nhiều vô số từ mấy chục năm đổi mới cho đến nay. "Quốc nạn" về tham nhũng và các nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, của Chính phủ đều phải thừa nhận nhưng tại sao Đảng ta, Nhà nước ta chống tham nhũng không có kết quả bao nhiêu. Nguyên nhân tại sao hiện nay Đảng ta, Nhà nước ta chưa tìm được nguyên nhân chính, dự luận rộng rãi trong Đảng, toàn quân và nhân dân cho rằng "Dột từ trên nóc nhà dột xuống". ở tỉnh Khánh Hoà của chúng tôi mà đã được các báo Thanh niên, Tuổi trẻ, Pháp luật Việt Nam, pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh kể cả báo Nhân dân về vụ siêu lừa đảo Nguyễn Đức Chi đưa 700.000 đô la bôi nhọ các cơ quan của tỉnh, đến vụ 5 anh em ngồi trên chiếc xe tăng để trồng rừng, vụ đất đai của bà Tư Hường thì đều có đăng tải trên báo chí đều có tên đích danh từ cấp uỷ viên TW Đảng, Bí thư tỉnh uỷ Khánh Hoà, Phó Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch UBND tỉnh, ông Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó chủ tịch UBND tỉnh, các ông Tỉnh uỷ viên, Giám đốc Sở Địa chính, Sở Kế hoạch Đầu tư v.v... Như thế, ở Khánh Hoà có phải "Dột từ trên nóc dột xuống không?" Dư luận đó là có thật, ai bây giờ làm sao tin ở lãnh đạo của các vị đó được.<br /><br />Tháng 8/2005, kỷ niệm 60 năm cách mạng tháng 8 và Quốc khánh 2/9, tôi ra Hà Nội, trước tiên là vào lăng Bắc để nhìn rất lâu vào thân thể từ đầu, mặt, tay, chân với tư thế nằm ngủ yên giấc ngàn thu mà làm cho tôi luôn luôn quá thương cha già của dân tộc, suốt đời vì dân vì nước. Khi ra đi theo Các Mác - Lênin và tổ tiên ông bà, cha mẹ mà Bác không có nhà lầu mấy tầng sang trọng, không có của cải tài sản gì chỉ còn để lại cái giường cá nhân, cái mũ, bộ quần áo ka ki bạc màu, đôi dép cao su đã mòn, cái đồng hồ, cái máy chữ cũ kỹ và cái tình thương vô hạn đối với nhân dân, đối với Đảng, đối với các cháu thanh thiếu niên, nhi đồng, đối với bạn bè thế giới. Nhân dịp này tôi có lên Ba vì - thăm viếng mộ của chị tôi ở nghĩa trang. Tôi thấy trên đồi núi mà khi Bác qua đời để bảo vệ thi hài của Bác nên Đảng và Nhà nước ta đào hầm sâu đưa thi hài Bác vào đó thì lúc đó không có một nhà lầu nào cả. Nhưng nay tôi thấy biết bao là nhà biệt thự, lâu đài khang trang, hỏi ra nhân dân cho đó là nhà của các ông cán bộ cao cấp, các ông Bộ, thứ trưởng, những ông Đảng viên kế cận nào đó. Sao họ giầu thế, các ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh và Bộ Chính trị, nhất là đối với trong Đảng, lời di chúc của Bác dặn rất kỹ "Phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình".<br /><br />Theo tôi, nhìn chung hơn 1,5 triệu Đảng viên già về hưu như chúng tôi ở trên toàn quốc thì chắc chắn hầu hết là vẫn giữ gìn sự đoàn kết trong Chi bộ, trong Đảng bộ ở các xã, phường, thực hiện nghiêm chỉnh lời di chúc của Bác Hồ. Vì chúng tôi là Đảng viên già về hưu thì đâu có còn có chức, có quyền gì vì Đảng đã quy định là tuổi từ 60 trở lên là Đảng viên nghỉ hưu thì không đủ tiêu chuẩn tham gia vào Bí thư Đảng uỷ, không được tham gia làm Chủ tịch UBND và Mặt trận từ xã phường trở lên, để cho lớp thanh niên kế cận làm, đó là tre già măng mọc. Còn chúng tôi là Đảng viên già phải làm Bí thư Chi bộ khóm, thôn, làm khóm trưởng, làm ông thôn trưởng, làm tổ trưởng nhân dân, làm tổ trưởng phụ nữ. Mặt trận khóm, có nghĩa là phục vụ nhân dân, phục vụ Đảng đến hơi thở cuối cùng mà không đòi hỏi đãi ngộ nào, không đòi hỏi khen thưởng gì. Đó là trách nhiệm của chúng tôi đã xác định vai trò và nhiệm vụ của người Đảng viên mà Đảng ta và Bác Hồ đã giáo dục rèn luyện chúng tôi từ khi bước vào cuộc cách mạng hơn 60 năm nay vẫn tin tưởng ở Đảng, vẫn tin tưởng ở chế độ tốt đẹp dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chúng tôi luôn luôn lấy tinh thần xây dựng và bảo vệ Đảng với hơi thở cuối cùng. Những ý kiến chân tình, trung thực của các Đảng viên bậc lão thành cách mạng để đạt lên Đảng thì không thể nói những ý kiến đó là chống Đảng. Cá nhân hay một vài người có chức có quyền ở trong Đảng, trong Nhà nước hiện nay có quan điểm, tư tưởng cho rằng những ý kiến để đạt chân tình, trung thực của các đồng chí Phạm Văn Xô, Đồng Văn Cống, Nguyễn Thi (Năm Thi) của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thượng tướng Nguyễn Nam Khánh, nguyễn Đức Tâm, Võ Văn Kiệt và nhiều đồng chí khác nữa mà cho rằng chống Đảng ư, Tôi luôn luôn cực lực phản đối những quan điểm tư tưởng sai trái đó bất kỳ họ ở cương vị nào trong Đảng và Nhà nước hiện nay. Về vấn đề đoàn kết trong Đảng mà Bác Hồ đã căn dặn trong Di chúc của Người thì tôi thấy ai gây ra mất đoàn kết, chính là những Đảng viên có chức có quyền gây ra phe phái lẫn nhau để giành chức, giành quyền nên sinh ra cái nạn tìm mọi thủ đoạn để nói xấu, xuyên tạc người này, người khác mà không ở phe cánh mình. Hiện tượng Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân công đi làm kế hoạch sinh đẻ và Lê Khả Phiêu thôi giữ Tổng Bí thư chẳng hạn. Trong Bộ Chính trị, trong TW còn như thế thì làm sao chúng tôi không lo lắng đến tiền đồ của Đảng ra sao đây? Trong đó, hai ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh nên xem lại cá nhân mình có thực hiện nghiêm chỉnh lời di chúc của Bác Hồ về vấn đề "giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình" hay không?<br /><br />Kính thưa các đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá 9 trên đây là một số vấn đề tôi có quyền chất vấn và tranh luận với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh để tỏ rõ quan điểm, tư tưởng của mình đối với hai ông ra cuốn sách "Chân dung Đại tướng Lê Đức Anh".<br /><br />Cuốn sách này ra đời, theo tôi thì không có cơ hội gì cho sự đoàn kết trong Đảng, trong quân đội và làm cho nhân dân phân tâm. Đây là công tác văn hoá tư tưởng nảy sinh rất lớn và hết sức phức tạp không lường hết trước bởi vì nội dung của cuốn sách này đã đề cao vai trò của ông Lê Đức Anh lên tận mây xanh mà Đảng, Nhà nước, quân đội nhân dân chưa thừa nhận, chưa công bố "ông Lê Đức Anh là một nhà chính trị có tầm cỡ, một nhà quân sự lớn của Đảng và Nhà nước ta ".<br /><br />Tôi chỉ là Đảng viên già bình thường, không có chức vụ gì trong Đảng, trong Nhà nước, trong xã hội nhưng tôi được sự giáo dục, rèn luyện của Đảng cộng sản Việt Nam và Bác Hồ suốt đời 60 năm đi theo cách mạng đi theo Đảng cũng có quan điểm, tư tưởng, nhận thức một mức độ nào đó về chính trị, về Đảng cộng sản Việt Nam nên thấy việc 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh cho ra cuốn sách trên có nhiều vấn đề mà tôi phải có trách nhiệm nhiệm chất vấn và tranh luận dựa trên Điều lệ Đảng đã quy định, Đây là ý thức xây dựng và bảo vệ Đảng. Tôi luôn luôn chống những kẻ nào, bất kỳ họ ở cương vị, chức vụ nào trong Đảng, trong Nhà nước hoặc những phần tử xấu xa đê hèn nào có những lời lẽ xuyên tạc, bôi nhọ đến uy tín thanh danh của Đảng và Bác Hồ thì dù tôi có hy sinh tính mạng đi nữa thì vẫn kiên quyết chống những kẻ chống Đảng, chống chế độ ta.<br /><br />Tôi năm nay 82 tuổi, là người xưa hay hiếm, 50 tuổi Đảng và hơn 60 năm đi theo cách mạng, đi theo Đảng, đi theo Bác Hồ, bảo vệ chế độ này đến cùng thì không có lý do gì các đồng chí Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư lại gán cho tôi cái tội chống Đảng bởi những ý kiến chất vấn và tranh luận của tôi đối với 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh ra cuốn sách "Chân dung Đại tướng Lê Đức Anh" là chuyện bình thường trong đấu tranh văn hoá tư tưởng.<br /><br />Hiện nay, trong người tôi vinh dự nhất là còn giữ được 02 quyển sổ:<br />1. Quyển số đỏ Đảng viên Đảng CSVN chứng nhận tôi là Đảng viên CSVN, huy hiệu 50 năm tuổi Đảng đó là vinh dự bậc nhất suốt cuộc đời đi làm cách mạng, đi theo Đảng và đi theo Bác Hồ đến hơi thở cuối cùng.<br /><br />Tôi suy nghĩ "Quyển sổ đỏ Đảng viên" có thể bị một thế lực nào đó trong Đảng hiện nay quy cho tôi là chống Đảng, để ra quyết định khai trừ và thu hồi thẻ Đảng của tôi. Điều này tôi cũng có thể lường trước rồi. Nếu như việc trên xẩy ra, tôi xin tuyên bố với Tổng Bí thư, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và BCH TW Đảng khoá 9 rằng "Tôi sẵn sàng giao lại sổ thẻ đỏ Đảng cộng sản Việt Nam công nhận tôi là Đảng viên Đảng CSVN do Bác Hồ sáng lập". Nhưng tôi cũng xin tuyên bố rằng "Bản chất, phẩm chất, đạo đức cách mạng của người Đảng viên cộng sản mà Đảng và Bác Hồ trước đây đã rèn luyện, giáo dục tôi vẫn ở trong trái tim tôi, không có một thế lực nào, không có một kẻ nào dù họ có quyền lực cao đi nữa thì cũng không thể nào thu hồi được Đảng viên cộng sản mà Đảng và Bác Hồ trước đây đã rèn luyện, giáo dục tôi vẫn ở trong trái tim tôi, không có một thế lực nào, không có một kẻ nào dù họ có quyền lực cao đi nữa thì cũng không thể nào thu hồi được bản chất, phẩm chất, đạo đức cách mạng của người Đảng viên ở trong trái tim của tôi được.<br /><br />Tôi có trở về làm một quần chúng, một công dân ngoài Đảng thì trong trái tim của tôi, trong trí óc của tôi vẫn luôn luôn tôn thờ Đảng CSVN, tôn thờ Bác Hồ đời đời, tôi cũng luôn luôn bảo vệ và xây dựng Đảng và chế độ tốt đẹp do Đảng và Bác Hồ lãnh đạo. thà làm một quần chúng tốt còn hơn làm Đảng viên xấu.<br /><br />Trên đây tôi trình bày về quan điểm, tư tưởng, chân tình, trung thực và có trách nhiệm đối với Đảng, nếu có những từ ngũ gì sai sót thì các đồng chí niệm tình tha thứ cho tôi về Đảng viên già này.<br /><br />Tôi đề nghị 2 ông Đỗ Mười và Lê Đức Anh trả lời về sự chất vấn và tranh luận của tôi về cuốn sách "Chân dung Đại tướng Lê Đức Anh" mà 2 ông là người chủ chốt cho ra đời.<br /><br />Tôi cũng đề nghị báo Nhân dân, NXB Quân đội Nhân dân Việt Nam, Tổng Công ty Phát hành sách Việt Nam cần xem xét lại quan điểm, tư tưởng, đồng tình với 2 đồng chí Đỗ Mười và Lê Đức Anh cho ra đời cuốn sách "Chân dung Đại tướng Lê Đức Anh", theo tôi các vị lãnh đạo các cơ quan thiếu thận trọng.<br /><br />Nguyễn Văn Bé ký tênVietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-56544328764844204862009-07-31T00:36:00.000-07:002009-07-31T00:40:17.453-07:00No24: Mẫu chuyện thật về Hồ Chí Minhiết thư Paris tuần này, Cỏ May muốn nhắc lại một mẫu chuyện xưa về bác của những người cộng sản Hán ngụy tại Hà Nội ngày nay, nhân ngày 19 tháng 05.<br /><br />Ngày 19 tháng 05 có phải thật sự là ngày sanh của Hồ Chí Minh hay không?<br /><br />Xin thưa hoàn toàn không phải.<br /><br />Không phải, theo nhiều tài liệu do chính tay Hồ Chí Minh tự khai với chánh quyền Pháp, trong đó, có tài liệu quan trọng là bức thư của Hồ Chí Minh viết gởi chánh phủ Pháp xin được vào học Trường thuộc địa để sau này trở thành người hữu ích cho Chánh phủ Pháp tại Ðông dương.<br /><br />Ỏ đây, Cỏ May không lần theo tài liệu vì đây là công việc biên khảo. Cỏ May không đủ khả năng để làm. Cỏ May chỉ làm công việc theo thói quen của người phụ nữ nhà quê Việt Nam khi pha trà hầu khách, nghe lóm được câu chuyện của các bực phụ huynh mà kể lại hầu bạn đọc hôm nay.<br /><br />Sau năm 1963, những nhà hoạt động cách mạng chống Việt Minh và Thực dân Pháp bị nhà cách mạng nhân vị Ngô Ðình Diệm bắt nhốt vừa được trả tự do trong số đó Cỏ May hân hạnh gặp Cụ Tạ Duy Minh và cả Cụ Xuân Tùng,… trong một dịp nhắc lại chuyện xưa ở Hà Nội.<br /><br />Các Cụ kể chuyện về ngày sanh của Hồ Chí Minh. Ngày 19/05 là ngày Toàn Quyền d’Argenlieu đến thăm viếng Hà Nội sau thỏa hiệp ước 06/03 Hồ Chí Minh ký với Pháp. Tiếp rước vị quan lớn mà không có cờ quạt chào mừng thì không phải phép nên Hồ Chí Minh bèn cho loan báo hôm nay là ngày sanh của bác, ra lệnh nhân dân Hà Nội treo cờ mừng sinh nhật của bác.<br /><br />Thế là dân chúng treo cờ trước nhà, đầu ngỏ, khắp nơi.<br /><br />Cách nay vài năm, tại nhà một người bạn Hà Nội gốc Ðông Âu định cư ở Jena, Ðông Ðức, Cỏ May nhắc chuyện về Hồ Chí Minh và Unesco, cũng nói về ngày sanh của Hồ Chí Minh, Cụ Vũ Thư Hiên vội xác nhận với mọi người hôm ấy ngày 19/05 không phải là ngày sinh của ông Hồ. Cụ Vũ Thư Hiên nhớ rõ hôm ấy, tức 19/05, ông Hồ bảo ông Cụ của Cụ Vũ Thư Hiên là hãy truyền lệnh cho nhân dân treo cờ nói là mừng ngày sinh của bác để chào mừng Ðô đốc d’Argenlieu vì người ta đến mà không có cờ quạt thì không phải phép. Mà nói rõ lý do thì nhân dân sẽ bất mãn.<br /><br />Thế là từ đó ngày 19/05 trở thành ngày sinh của Hồ Chí Minh.<br /><br />Ngày nay, Cỏ May nhận thấy mọi biến cố của Việt Nam, như Lễ Ðộc lập, 30/04… đều bắt đầu từ những tiểu xảo, tức bằng sự khôn vặt hoặc sự gian dối, lật lộng của người cộng sản Hà Nội!<br /> <br /><br />Sự gian dối của 18 năm trước: vụ UNESCO Paris<br /><br />Nay sắp tới ngày 19 / 05, Cỏ May nhắc lại chuyện UNESCO Paris và lễ kỷ niệm sinh nhật của Hồ Chí Minh năm 1990 để thấy đâu là sự thật. Và cũng để trả lời nhiều người ở Việt Nam vẫn còn ngờ vực về chuyện này vì bộ máy tuyên truyền Hà Nội tiếp tục nói dối.<br /><br />Cỏ May trích dẫn văn kiện chánh thức của UNESCO đề ngày 25 tháng 05 năm 1987 liên quan đến quyết dịnh chấp thuận cho ghi đề nghị của Ðại diện Hà Nội tại UNESCO vào nghị trình của khóa họp 24 Ðại Hội đồng:<br /><br />“Bởi văn thư số 67/btk/87 đề ngày 14 tháng 04 năm 1987, ông Chủ tịch Ủy Ban quốc gia Việt Nam bên cạnh UNESCO, nhân danh Chánh phủ của ông, đề nghị ghi 1 điểm vào nghị trình tạm thời của khóa họp 24 Ðại Hội đồng, liên quan đến việc tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.”<br /><br />Vả lại và với sự dè dặt của Ðại Hội đồng sẽ có quyết định liên quan đến vấn đề ấy, ông Tổng Giám đốc đề nghị ghi vào nghị trình 1 điểm như sau: “Tổ chức lễ sinh nhựt lần thứ 100 của Chủ tịch Hồ Chí Minh” (tài liệu số 126 EX/25 Add.3, Paris, ngày 25/05/1987).<br /><br />Theo đây, chúng ta thấy rõ UNESCO không có một lời nào biểu lộ y “tôn vinh Hồ chí Minh là vĩ nhân, là nhà văn hóa xuất sắc hay nhà giải phóng dân tộc,…”<br /><br />Những lời lẽ “tôn vinh Hồ Chí Minh” là của ông Võ Ðông Giang, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy Ban quốc gia UNESCO Việt Nam, viết trong thư gởi UNESCO xin ghi tên Hồ Chí Minh vào nghị trình kỳ họp 24 Ðại Hội Ðồng liên quan đến việc tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật lần thứ 100. Nếu được UNESCO chấp thuận thì Hà Nội sẽ được trợ cấp một ngân khoản tổ chức lễ tại Hà Nội và có thể tại trụ sở UNESCO Paris vì Việt Nam là quốc gia Hội viên, tức có đóng góp cho ngân quỹ UNESCO.<br /><br />Sau đây là thư của ông Võ Ðông Giang viết cho ông Tổng Giám đốc UNESCO:<br /><br /> Tôi hân hạnh thông báo với Ngài quyết định sau đây của Cộng Hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam:<br /><br /> Nhân dân Việt Nam sẽ tổ chức trọng thể kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/05/1890 – 19/05/1990)<br /><br /> Chủ tịch Hồ Chí Minh là vị anh hùng dân tộc, đồng thời là nhà văn hóa xuất sắc của Việt Nam. Do vai trò và cống hiến vô cùng to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam…<br /><br /> Vì lẽ đó, Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định trình Ðại Hội Ðồng khóa 24 thông qua nghị quyết kỉ niệm lần thứ 100 ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.<br /><br />Ðề nghị của Hà Nội được ông Tổng Giám đốc UNESCO lúc bấy giờ là ông Amadou Mathar M’Bow, người Phi Châu đen chấp thuận dễ dàng vì vốn thân cộng sản.<br /><br />Nhiệm kỳ sau, ông M’Bow không tái đắc cử vì bị mang tai tiếng xấu trong UNESCO. Ông Frédéric Mayor đắc cử Tổng Giám đốc.<br /><br />Kỷ niệm sinh nhật của Hồ Chí Minh bước qua một khúc quanh mới từ đây.<br /> <br /><br />ỦY BAN TỐ CÁO TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH<br /><br />Ðược tin UNESCO ban hành Quyết nghị ghi tên Hồ Chí Minh vào danh sách. những nhân vật sẽ được tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật vào năm 1990, người Việt ở Paris lập tức thông báo nhau và hẹn gặp nhau để thảo luận về một chương trình hành động chung chống lại Quyết nghị của UNESCO.<br /><br />Sau vài lần gặp nhau với vài chục người, một Tổ chức thành hình dưới tên gọi là ỦY BAN TỐ CÁO TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH. Ông Nguyễn Văn Trần làm Tổng thư ký của ỦY BAN gồm hơn mươi người.<br /> <br /><br />Hồ sơ tội ác Hồ chí Minh<br /><br />ỦY BAN thông báo Cộng đồng người Việt tỵ nạn ở khắp nơi để kêu gọi cung cấp những thông tin về tội ác của Hồ Chí Minh và Ðảng cộng sản Hà Nội từ vụ Cải cách Ruộng đất, Cải tạo Công thương nghiệp, Vụ Nhân văn Giai phẩm ở Hà Nội đến Vụ Tù tập trung quân nhân, viên chức Miền Nam, đánh Tư sản mại bản, đuổi đi kinh tế mới, tổ chức bán bãi, vượt biên bán chánh thức để thu vàng ở Miền nam sau 30/04/75.<br /><br />Ngoài ra, ỦY BAN cũng thu thập tài liệu về những vụ giết người yêu nước không theo cộng sản trong kháng chiến chống Pháp như Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo,… Và vụ Hồ chí minh bán Cụ Phan Bội Châu cho Pháp để lấy tiền. Những thông tin này được Ủy Ban đúc kết thành những tập hồ sơ tội ác của Hồ Chí Minh gởi đến UNESCO.<br /><br />ỦY BAN thu thập được hơn 30 ngàn thư của người việt tỵ nạn CS ở khắp nơi gởi về ỦY BAN hoặc gởi thẳng tới UNESCO đồng loạt lên tiếng phản đối UNESCO tổ chức lễ kỷ niệm lần thứ 100 sinh nhật cho Hồ Chí Minh, một tên tội phạm chống nhân loại.<br /><br />Sau cùng ỦY BAN quả quyết với UNESCO là ngày 19/05 không phải là ngày sinh của Hồ Chí Minh, với dẫn chứng những ngày sinh khác nhau do chính tay ông khai với Chánh phủ Pháp. ỦY BAN cũng không quên nhắc lại ngày chết của Hồ Chí Minh là ngày 02/09/1969 bị đảng cộng sản sửa đổi. UNESCO là Cơ quan quốc tế về Văn Hóa, Khoa Học không thể chấp nhận sự gian dối của Hà Nội để ghi ngày 19/05 là ngày sinh của Hồ Chí Minh.<br /><br />Về văn hóa, ỦY BAN phê phán những bản văn của Hồ Chí Minh viết chỉ có giá trị văn thư hành chánh, hoàn toàn không có giá trị văn học. ỦY BAN cũng phê bình về tác giả T.Lan, Trần Dân Tiên không ai khác hơn là Hồ Chí Minh viết văn để tự tâng bốc mình. Và cũng từ đây, những ấn phẩm này được nhà cầm quyền Hà Nội, vì không còn dấu diếm tên tác giả được nữa, đưa vào tài liệu văn học và giáo khoa. Thật thảm hại!<br /><br />Riêng tập thơ Ngục Trung Nhật Ký, tức thơ Tù, nói là của Hồ Chí Minh, thật ra không phải của Hồ Chí Minh. Ðiều này được Giáo sư Lê Hữu Mục chứng minh hoàn toàn thuyết phục.<br /><br />Nhân đây, Cỏ May kể một giai thoại để thêm một lần nữa xác nhận Hồ Chí Minh không phải là tác giả của tập thơ ấy:<br /><br /> Ngày 15 tháng 10 năm1998, tại Ðại Học Paris VII, Ban Việt học, Giáo sư người Nhật, ông KENICHI KAWAGUCHI, Hội viên Văn Bút Nhật bản, Giáo sư tại Ðại học Tokyo, Bang Ðối ngoại, thuật chuyện về Hà Nội. Nghe nói tập thơ Tù của Hồ Chí Minh, ông đã đến Hà Nội tìm đọc và có thể sẽ dịch ra tiếng Nhật. Một Giáo sư người Việt thấy vậy, vỗ vai ông vừa cười và bảo tập thơ ấy có phải của ông Hồ đâu mà ông mất công nghiên cứu.<br /><br />Thế là Giáo sư KAWAGUCHI bỏ qua ý định.<br /><br />Chánh giới Pháp nhiệt tình ủng hộ và kết quả của Ủy Ban<br /><br />ỦY BAN vận động sự ủng hộ của Chánh giới pháp như các Dân biểu, Thượng Nghị sĩ. Ðặc biệt, ỦY BAN được sự nhiệt tình yểm trợ của Hội Cựu chiến binh và Cựu Ðông dương, đứng đầu là Tướng Guy Simon<br /><br />Những người này, theo lời yêu cầu của ỦY BAN, viết thư can thiệp với Chánh quyền Pháp, với tư cách nước chủ nhà đón nhận trụ sở UNESCO tọa lạc tại Paris, bày tỏ thái độ khó chịu vì những tội ác của Hồ Chí Minh đã gây ra cho dân tộc Việt Nam, mà những tội ác này ngày nay bị xếp vào tội chống nhân loại.<br /><br />Ðến trước ngày 19/05/1990, ông Nguyễn Văn Trần, Tổng thư ký ỦY BAN TỐ CÁO TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH được một vị Ðại diện UNESCO mời đến để thông báo quyết định của UNESCO là không thi hành Quyết nghị số 126 EX/25 Add.3, ngày 25/04/1987, Paris.<br /><br />Bởi Văn phòng UNESCO không có quyền hủy bỏ một Quyết nghị của Ðại Hội Ðồng. UNESCO chỉ cho Sứ quán Hà Nội thuê một phòng trong trụ sở để tự tổ chức lễ kỷ niệm sinh nhật cho Hồ Chí Minh. UNESCO không cử người tham dự. Thị xã Paris, Chánh phủ Pháp không tham dư.<br /><br />Cùng đi với ông Nguyễn Văn Trần có Trung Tướng Guy Simon.<br /><br />ỦY BAN lúc ấy thấy đạt được thành quả như vậy là đủ rồi nên không cần phổ biến thật rộng rãi. Do sự thật thà này mà ngày nay, Hà Nội vẫn rêu rao UNESCO “tôn vinh Hồ Chí Minh”.<br /> <br /><br />Sự thật về lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật Hồ chí Minh<br /><br />Và sự thật này, sau 10 năm, được báo AN NINH THẾ GIỚI ở Hà nội, số 177, ngày 18/05/1990, qua tác giả Văn Chấn thú nhận, với dụng ý đề cao tài gian dối của cán bộ đảng viên vượt qua được những khó khăn do UNESCO không thi hành Quyết nghị, mà tổ chức lễ:<br /><br /> … Hoạt động của một số tổ chức phản động của người Việt lưu vong tăng cường mạnh nhằm bôi nhọ hình ảnh Bác và ngăn cản UNESCO tổ chức kỷ niệm ngày sinh của Bác. Ðiển hình là một số người Việt lưu vong ở Pháp, Mỹ và một số nước đã tụ tập nhau ở Paris thành lập cái gọi là “Ủy ban chống tôn vinh Hồ Chí Minh” (Văn Chấn tránh nói rõ Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh). Chúng tích cực vận động một số nhân vật hữu phái trong Chánh quyền các nước ký tên vào thư yêu cầu Tổng thư ký UNESCO hủy bỏ lễ kỷ niệm….<br /><br /> Ðã sắp đến ngày kỷ niệm, nhưng Ban lãnh đạo UNESCO vẫn chưa dứt khoát lại còn gây sức ép thuyết phục ta đồng ý tổ chức kỷ niệm ở bên ngoài trụ sở UNESCO với lý do có nhiều ý kiến phản đối… UNESCO đề nghị bỏ một vài hoạt động hình thức tuyên truyền chính trị như không treo ảnh Bác trong hội trường, không tổ chức triển lãm ảnh Bác ở hành lang UNESCO, trong giấy mời ghi là đến xem văn nghệ. Ðược trong nước đồng ý… Chúng ta thuê một cơ sở in của Việt kiều ở ngoại ô Paris, in thiệp mời có ảnh nổi của Bác và gởi đi các nơi.<br /><br /> Ba ngày trước lễ kỷ niệm, tình hình lại không diễn ra như ý ta mong muốn. Tổng thư ký mời Ðại diện phía ta lên gặp và yêu cầu hoãn lễ kỷ niệm với lý do ta không giữ đúng lời hứa vì trong giấy có in hình Bác và có ghi “nhân dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Hồ Chí Minh, danh nhân thế giới”… ta cũng cho thuê in 100 giấy mời mời (không có hình HCM và không ghi lễ kỷ niệm sinh nhật HCM) để gởi cho lãnh đạo UNESCO và các nhân vật cánh hữu Pháp, số còn lại, vẫn sử dụng giấy mời cũ…<br /><br /> Về phần nội dung buổi lễ, ta có thay đổi chút ít. Ðồng chí Ðại sứ của ta không đọc bài diễn văn dài về Bác mà thay vào đó là đồng chí Nguyễn Kinh Tài, Ðại sứ bên cạnh UNESCO, đọc diễn văn ngắn nói về ý nghĩa lễ kỷ niệm, đọc Quyết định của UNESCO về kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Bác, …cuối cùng là chương trình xem văn nghệ do đoàn cải lương trong nước sang phục vụ.<br /><br />Nay Cỏ May, nhờ có duyên gặp được người trong cuộc, ghi lại một lần cho dứt khoát để trả lời các bạn ở trong nước đã nhiều lần viết thư hỏi về sự thật của vụ UNESCO và lễ kỷ niệm 100 năm sinh nhật Hồ Chí Minh.<br /> <br /><br />Nguyễn thị Cỏ May 16-05-08Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-62394438829265041452009-07-31T00:34:00.000-07:002009-07-31T00:35:37.333-07:00No23:Tượng của Bác nên đặt ở đâu cho nhân dân chiêm ngưỡng?Trong thư Paris trước đây, Cỏ May có nhắc đến ngày 19/05 và quả quyết ngày ấy không phải là ngày sanh của Hồ Chí Minh. Độc giả phần lớn chắc đồng ý với Cỏ May. Nhưng, ngày sanh đúng của Hồ Chí Minh là ngày nào, thì ngày nay vẫn chưa có ai xác nhận được. Bà Nguyễn thị Thanh là chị của ông cũng chỉ nói ông sanh năm 1891 mà thôi. Có lẽ ngày xưa ở miền Trung, người dân hãy còn theo thói quen cũ về việc khai sanh nên không giống như trong Nam đã có chế độ hộ tịch rõ ràng.<br /><br />Một ngày sanh đúng hoặc chánh thức phải được ghi vào danh bạ hộ tịch. Ngày 19/05 là ngày dỏm, do bịa đặt vì nhu cầu nói dối với nhân dân.<br /> <br /><br />Chuyện về Hồ Chí Minh nói hoài không hết<br /><br />Không riêng gì ngày sanh, tên họ khác nhau, sai biệt nhau khá nhiều, mà cả cuộc đời của Hồ Chí Minh cũng đầy rẫy những khoảng tối dày đặc mà cho tới ngày nay, nhiều sử gia Phương Tây cũng đành bỏ qua.<br /><br />Ai cũng ngạc nhiên vào những năm 1934–1938, tại Mạc-tư-khoa, Nga, Hồ Chí Minh làm gì? Hoạt động của ông như thế nào? Đảng cộng sản Hà Nội bỏ ra nhiều nổ lực nói về ông, kể cả những chi tiết thật vô duyên như hôm lễ Độc lập, ông cầm máy vi âm hỏi “đồng bào có nghe tôi rõ không?” chỉ chủ yếu thử máy, mà được cả bộ máy tuyên truyền đề cao sự thiết tha, sự quan tâm đặc biệt của bác đối với nhân dân. Thế mà sự thiếu vắng của bác trong khoảng thời gian dài này ở Mạc-tư-Khoa lại được Đảng cộng sản lờ đi một cách nhẹ nhàng. Đảng sử, tiểu sử của ông, viết dưới nhiều khía cạnh khác nhau, tất cả đều không thấy ghi lại ông làm gì suốt thời gian ấy.<br /><br />Theo một số người tìm hiểu đời tư của Hồ Chí Minh, kể cả ông Tưởng Vĩnh Kính, người Tàu, cho rằng ông bị Staline “giam lỏng” vì Staline nhận thấy ông chưa thuộc bài, tức chưa am hiểu học thuyết Mác-Lê, để cho ông có thì giờ dồi mày kinh sử.<br /><br />Nhưng theo sử gia người Anh, bà Sophie Quinn Judge, mất rất nhiều thì giờ tham khảo tài liệu tại văn khố ở Mạc-tư-khoa, Hồ Chí Minh bị Staline “giam lỏng” chỉ vì vấn đề tình ái riêng tư của ông mà thôi.<br /><br />Thật vậy, theo bà Quinn Judge, Hồ Chí Minh đã từng sống chung, như vợ chồng công khai, với một người đàn bà Việt Nam tên Nguyễn thị Minh Khai. Người phụ nữ này đã từng hoạt động sát cánh với ông ở Hồng kông vào năm 1930-1931 và cùng với ông đến Mạc-tư-khoa, sống chung với ông từ cuối năm 1934 đến đầu năm 1937. Nhưng đảng cộng sản Hà Nội cho tới ngày nay vẫn kiên trì phủ nhận những sự thật này. Họ không muốn thừa nhận Hồ Chí Minh có vợ, có người yêu, có con, tức một Hồ Chí Minh bình thường như bao nhiêu người khác. Họ chỉ muốn biến Hồ Chí minh thành “ông thánh”, khác hơn người thường. Chính vì ý muốn bệnh hoạn này mà Nông thị Xuân, ăn ở với ông có con tên Nguyễn Tất Trung, ngày nay còn sống ở Hà Nội, bị Trần Quốc Hoàn, trùm công an, ám hại chung cả chị em một cách vô cùng dã man. Cái chết thảm thiết của chị em Nông thị Xuân, chỉ có người cộng sản Hà Nội làm được mà thôi. Và ngày nay, họ vẫn lấy sự dối trá làm quốc sách cai trị nhân dân Việt Nam.<br /><br />Cỏ May xin thuật lại một giai thoại có một không hai của Hà Nội liên quan đến tài liệu của bà Quinn Judge công bố vào cuối năm 1994 về đời tư và hoạt động của Hồ Chí Minh ở Mạc-tư-khoa.<br /><br />Sau một thời gian ngắn, tài liệu trên được công bố. Báo chí việt ngữ hải ngoại, có cả Việt Luận số 992, thứ sáu, ngày 25 tháng 05 năm 1995, lần lượt phổ biến bằng tiếng Việt kèm theo nguyên bản tiếng Anh. Trong một chương trình phát thanh thường lệ, Đài phát thanh quốc tế pháp, RFI, có loan tin Trung tâm văn khố Mạc-tư-khoa hỏi xin bà Quinn Judge một phóng ảnh bản tài kiệu về Hồ Chí Minh mà bà đã tìm được trong văn khố vì khi nhân viên sắp xếp lại tài liệu, thấy mất bản văn ấy. Trung tâm nhớ lại, sau khi bà Quinn Judge rời khỏi Trung Tâm, chỉ có một phái đoàn Hà Nội, gồm nhiều công an, đến Trung tâm và xin vào tham khảo tài liệu. Phải chăng những người này đã ăn cắp tài liệu kia để thủ tiêu nhằm giữ kín sự thật của Hồ Chí Minh như trước giờ họ đã làm?<br /><br />Cỏ May tin được việc phái đoàn Hà Bội là thủ phạm ăn cắp tài liệu ở văn khố Nga như tin Đài RFI loan tải. Việc này không phải mới mẽ gì.<br /><br />Tại Pháp, ở Paris, Cỏ May đã gặp phải trường hợp một quyển sách tiếng Việt về lịch sử Việt Nam của Thư viện Quốc gia pháp chỉ còn có cái bìa còn nguyên tựa sách. Ruột quyển sách đã bị lấy cắp mất, thay thế vào đó là ruột của một quyển sách dạy nấu ăn. Cỏ May đem trình nhân viên thư viện mới biết người mượn trước là một người Việt Nam thuộc Hội Việt kiều yêu nước. Tức Việt Cộng Hà Nội hoạt động ở Paris .<br /><br />Và ngày nay, trong các thư viện ở Pháp, sách của Hà Nội tràn ngập, thai thế một số sách cũ có từ trước 1975. Một số sách hiếm, Thư viện chỉ cho mượn đọc tại một phòng riêng dưới sự kiểm soát chặc chẽ của nhân viên hoặc đã được thu vào máy.<br /> <br /><br />Buổi phát thanh của RFA về Hồ Chí Minh<br /><br />Năm nay, nhân ngày 19/05, Đài Phát thanh Á Châu Tự Do, RFA ở Huê kỳ, có thực hiện một chương trình đặc biệt về Hồ Chí Minh và Unesco. Buổi phát thanh đưa ra vào buổi sáng đúng ngày hôm ấy để “chào mừng sanh nhựt bác”. RFA muốn xác nhận dứt khoát một sự thật là Unesco hoàn toàn không tổ chức lễ 100 năm ngày sanh của Hồ Chí Minh để trả lời cho thính giả ở việt nam ngày nay vẫn còn bị đảng cộng sản và Nhà nước Hà Nội tuyên truyền dối gạt rằng Hồ Chí Minh “được Unesco tôn vinh là nhà văn hóa xuất sắc, nhà giải phóng dân tộc,…”<br /><br />RFA hỏi hai người. Nhà báo tự do Bùi Tín là người có tham dự lễ sanh nhựt lần thứ 100 tổ chức tại Hà Nội năm 1990 xác nhận không có Đại diện Unesco tham dự. Người ngoại quốc duy nhứt có mặt hôm ấy là một người Ấn Độ, Đại diện Đảng cộng sản Ấn Độ, đến tham dự. Ông Nguyễn văn Trần, ở Paris, là Tổng thư ký ỦY BAN TỐ CÁO TỘI ÁC HỒ CHÍ MINH. Chính ông đến Trụ sở Unesco để được trả lời là Unesco không thi hành Quyềt nghị số 126 EX/25 Add.3 ngày 25/05/1987, Paris, tức Unesco không tổ chức lễ kỷ niệm, không tham dự khi Sứ quán Hà Nội thuê một phòng trong trụ sở Unesco để tổ chức, Chánh phủ pháp và Thị xã Paris không tham dự. Hà Nội tổ chức không được phép có những chi tiết bề ngoài nhằm đề cao Hồ Chí Minh như nhà văn hóa,… RFA muốn làm thêm một chương trình về tập thơ Ngục Trung Nhựt ký, tức tập thơ tù của Hồ Chí Minh, để nói rõ Hồ Chí Minh không phải là tác giả. Nhưng tình hình thế giới và Việt Nam có quá nhiều biến chuyển mới nên RFA đã phải gác lại cho một dịp khác.<br /> <br /><br />Một Tượng đài cho Hồ Chí Minh<br /><br />Trên báo CÔNG AN ngày 05/11/98, Thanh Lê nhận xét “Sau ngày giải phóng, nhìn lại một số tượng đài ở Tp.Hồ Chí Minh, như tượng đài Bác Hồ với thiếu nhi,… có cái gì được và có cái gì chưa được. Được về ý đó tốt đẹp, nhưng chưa được vì đặt không đúng chỗ. Như Tượng Bác Hồ với thiếu nhi phải được đặt tại Nhà Rồng là hợp lý nhất. Ở công viên trước UBNDTP cần có tượng Bác, toàn thân đứng vẫy tay chào, hay ít nhất là bức tượng bán thân, mới thật sự nghiêm túc, mỗi khi các đoàn đến cung kính trước Người.<br /><br />Nói cho công bằng, nhóm tượng đài ở TP xây dựng trước 1975 có một cái gì đó hấp dẫn hơn, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn. Nhìn những tượng đài Trần Hưng Đạo, An Dương Vương, Trần Nguyên Hãn, Thánh Giống, Phan Đình Phùng,… thấy vừa cao sang, khí phách, hùng tráng, dũng mãnh, vừa đạt đến tính thẩm mỹ mang bản sắc dân tộc. Mỗi lần ai đi qua đó đều dừng chân lại ngắm nghía, thưởng thức, ít nhất đôi mắt của họ cũng phải dừng lại mấy giây… Những tượng đài đó đã tô đẹp cho Thành phố của chúng ta trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.<br /><br />Trước đây, đảng cộng sản có đưa ra một chương trình thi đua tạc tượng Bác và một chương trình tham khảo nguyên vọng nhân dân Nam bộ chọn nơi đặt tượng của Bác khi tượng được làm xong. Văn phòng thu thập ý kiến đặt tại đường Nguyễn thị Minh Khai (số nhà, Cỏ May quên mất. Tìm lại tài liệu ấy chưa được. Xin cáo lỗi.)<br /><br />Sau một thời gian thăm dò ý kiến, bỗng chương trình tượng đài và địa điểm đặt tượng bị bỏ qua, không thấy báo chí nhắc tới. Trong lúc ấy, dân chúng ở Sài gòn truyền tai nhau một bài thơ bày tỏ nguyện vọng của nhân dân Nam bộ chọn nơi đặt tượng Bác Hồ, khi tạc xong.<br /><br />Cỏ May xin chép lại nguyên văn bài thơ ấy do chính tác giả cho Cỏ May lúc đó để gọi là “tưởng niệm Bác nhân ngày 19/05 của Bác” :<br /> <br /><br /> Ở phía sau lưng Chợ Bến Thành<br /> Có tòa Công thự dáng thanh thanh<br /> Mỗi ngày dân chúng đua nhau đến<br /> Trút ruột phơi gan rất nhiệt tình<br /><br /> Tượng Bác nên đem dựng chỗ này<br /> Để cho Bác để nắm trong tay<br /> Bao nhiêu lòng dạ người thiên hạ<br /> Đem đến nơi đây trút mỗi ngày<br /><br /> Chẳng biết lấy chi hiến Bác giờ<br /> Nên xin dâng tạm bốn câu thơ<br /> Ngày nào đã tạc xong, xin cứ<br /> Đem khắc vào chân tượng Bác Hồ:<br /><br /> “Đây tượng Bác Hồ, bực vĩ nhân<br /> Một thân gánh vác việc gian nan<br /> Của toàn thiên hạ và tay kiếm<br /> Thu hết lòng dân nước Việt Nam.”<br /><br /> (NNH)<br /><br />Ba câu cuối mượn ý ở câu đối của Lê Thánh Tôn ban cho làng Cổ Nhuế:<br /><br /> “Khoác tấm áo bào, giang tay gánh vác thiên hạ<br /> Vung hai thước kiếm, tận thu lòng dạ thế gian.”<br /><br />Nguyên văn chữ hán :<br /><br /> “Thân trụ nhất nhung y, năng đảm thế gian nan sự<br /> Thủ trì tam xích kiếm, tận thu thiên hạ nhân tâm.”<br /> <br /><br />Rất tiếc Cỏ May vì cho tới ngày vượt biển vẫn ở dưới nhà quê nên không biết Sài gòn. Tòa Công thự ấy là tòa nhà gì, ở đâu, của ai ở? Cỏ May chưa được biết. Mong bạn đọc hiểu cho.<br /> <br /><br />Nguyễn thị Cỏ May (Thư Paris – 23/5/2008)Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-86466233897907228302009-07-31T00:32:00.000-07:002009-07-31T00:34:07.382-07:00No22: Chương VII: Hồ Chí MinhChương VII: Hồ Chí Minh (trang 121-131)<br /><br />Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.<br /><br />Lần thứ nhất ngay sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về Thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp II ở trường Hàn Thuyên.<br /><br />Một hôm được tin Hồ Chủ Tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ Chủ Tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.<br /><br />Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin thị xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.<br /><br />Đợi một lúc thì có một chiếc xe ôtô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.<br /><br />Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy, đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô “Hồ chủ tịch muôn năm!”<br /><br />Đứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ Chí Minh là như thế.<br /><br />Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt động khá mạnh. Đã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên Ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.<br /><br />Lần thứ hai tôi được thấy Hồ Chủ Tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Đại học Sư phạm Vinh.<br /><br />Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho Ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.<br /><br />Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre – có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ Tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người:<br /><br />- Đảng lao động Việt Nam Muôn năm!<br /><br />- Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà muôn năm!<br /><br />Ông Hồ vung tay rất cao.<br /><br />Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:<br /><br />- Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!<br /><br />Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống.<br /><br />Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.<br /><br />Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.<br /><br />Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chỗ lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ: “Thanh cậy thế, Nghệ cậy…” thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại “cậy thần” là thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.<br /><br />Năm 1969, tôi chuyển ra công tác tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, hoạ sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về Ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện Ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật kí trong tù.<br /><br />Ông Hồ về PắcBó đầu năm 1941 ngày 28 – 01, tháng 8 – 1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.<br /><br />Ông Lê Quảng Ba cùng đi với Ông Hồ. Đến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Để động viên người đồng hành với mình, Ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh phụ ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba muơi năm, Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh phụ ngâm.<br /><br />Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Đến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, Ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên là Dương Đào – tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Đến xã Túc Vinh, huyện Đức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (ngày 27 – 8 – 1942).<br /><br />Không phải Ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở PắcBó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.<br /><br />Nhưng cảnh sát Tầu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế! Điều này tác giả Nhật kí trong tù cũng đã nói rõ trong thơ của mình:<br /><br />Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng<br />Lại bị tình nghi là Hán gian<br />(Đường đời hiểm trở)<br /><br />Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,<br />Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;<br />Tuy bị tình nghi là gián điệp,<br />Mà như khanh tướng vẻ ung dung.<br />(Đi Nam Ninh)<br /><br />Các vị lãnh đạo Đảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt… nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tầu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.<br /><br />Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sang chế độ nhà tù khác. Trong Nhật kí trong tù, bài Bốn tháng rồi có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cũng cực khổ của Ông Hồ – “Sống khác loài người vừa bốn tháng, Tiều tuỵ còn hơn mười năm trời”<br /><br />Chuyển sang chế độ nhà tù mới, Ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Điều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Điều đáng chú ý là, Nhật kí trong tù có tất cả 133 bài tuyệt cú thì bài Bốn tháng rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân chủ nghĩa” của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng (Cuốn “Trung Quốc đích mệnh vận”)…<br /><br />Nguyên bản Nhật kí trong tù đâu chỉ có thơ. ở cuối tập Nhật kí còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Độc báo lan, và những thu hoạch từ các sách đã đọc gọi là Độc thư lan<br /><br />Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai quyển) Nhật kí trong tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:<br /><br /> Ngâm thơ ta vốn không ham,<br /> Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây;<br /> Ngày dài ngâm ngợi cho khuây,<br /> Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do.<br /><br />Hồ Chí Minh được bọn Tầu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.<br /><br />Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật kí trong tù ông Hồ gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu)) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12 – 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.<br /><br />Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá hóc hiểm:<br /><br />“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh”<br /><br />Ông Hồ xin đối:<br /><br />“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách”<br /><br />Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi: “Đối hay lắm!”. Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói: “Hồ Tiên Sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục!”<br /><br />Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điệu Nga – la – tư. Một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.<br /><br />Trong Nhật kí trong tù và hồi kí Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù “chân mềm như bún“, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhẩy điệu Nga – la – tư?<br /><br />Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung Quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt (Cho nên mới có chuyện, ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê). Khoảng giữa tháng 9 – 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Lần đầu tiên lên đỉnh núi, Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:<br /><br /> Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân<br /> Giang tâm như kính tịnh vô trần<br /> Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh,<br /> Nam vọng trùng dương ức cố nhân<br /> (Vừa đi đường vừa kể chuyện)<br /><br />Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp, trong tập hồi kí Những chặng đường lịch sử cho biết: “Bữa ấy, tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Đông, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:<br /><br />- Anh xem có đúng là chữ của Bác không?<br /><br />Đó là một tờ báo ở Trung Quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ Bác, Bác viết: “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác. ở bên này bình yên”<br /><br />Phía dưới lại có một bài thơ”.<br /><br />Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9 – 1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12 – 1943)<br /><br />Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong buổi liên hoan tiễn cụ Hồ về nước hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.<br /><br />Về tập Nhật kí trong tù, có người nói, ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.<br /><br />Ngày 16 – 9 – 1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật kí trong tù vẫn được ông giữ cẩn thận.<br /><br />Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu: “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng”. Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bầy ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Đảng Cộng sản Đông Dương”<br /><br />Nhật kí trong tù hiện được lưu giữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.<br /><br />Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết hoạ sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp hoạ sĩ ở nhà riêng.<br /><br />Hai vợ chồng cùng là hoạ sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Đất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân… bằng đất sét.<br /><br />Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ sọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.<br /><br />ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.<br /><br />Diệp Minh Châu ở với Hồ Chủ Tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội hoạ, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ Chủ Tịch.<br /><br />Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo: “Chú cứ ăn trước đi”. Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với hoạ sỹ: “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm!”<br /><br />Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: Người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Đông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chân chính. Ông Phạm Văn Đồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên Xô): Năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp. Ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).<br /><br />ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vừa câu vừa trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật kí trong tù: “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ”. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật kí trong tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi. (Trong Vừa đi đường vừa kể chuyện, ông đã nói như thế).<br /><br />Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.<br /><br />Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Đại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ, oai phong. Cô khoe vừa được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Đến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô chờ ở đây, người khác sẽ đưa đi tiếp. Chặng cuối cùng, anh dẫn đường nói, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ. Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị Chủ tịch nước là: “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi”<br /><br />Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.<br /><br />Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong Anh em nhà Karamadôp: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (…) thế những tôi lại không thể sống chung với bất kì ai trong một căn phòng”. Đó là loại người mà Dostoievsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng” chứ không có tình yêu thực sự. Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.<br /><br />Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói: Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ.<br /><br />Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người: Hồi kháng chiến chống Pháp, hoạ sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời hoạ sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.<br /><br />Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường. Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh cũng phải “diễn” những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!”, ông nói: “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm!” Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề ra cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ. Hoạ sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi (Người ta nuôi một con bò để lấy sữa cho ông).<br /><br />Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ – hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.<br /><br />Hà Huy Giáp cho biết: Một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature – ông Hồ nói: “Chúng mình là contrenature”.<br /><br />Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ Chủ Tịch. Ông kể chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với Cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ: “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được”. Ông Hồ nói: “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi. Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Đừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần áo vải. Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Để khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.<br /><br />Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư kí riêng của cụ Hồ.<br /><br />Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết thêm gì về Hồ Chí Minh. ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Đi guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi: “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”<br /><br />Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế: Để râu dài. áo cánh lụa. Đi guốc. Cầm quạt phe phẩy…<br /><br />Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.<br /><br />Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng, ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại: một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh hoạ đường lối chính trị. Những bài thơ chúc Tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mĩ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.<br /><br />Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã phê phán tôi về sự phân biệt này: Thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.<br /><br />Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy.<br /><br />Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ: khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sửa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà lại góp ý tập thể như thế!<br /><br />Trước kia, hàng năm, vào dịp 19/5, tôi thường được nhiều nơi mời đi nói chuyện về thơ Hồ Chủ Tịch. Thường có chị Trần Thị Tuyết cùng đi để ngâm thơ minh hoạ. Chị Tuyết cho biết, khi Hồ Chủ Tịch còn sống, vào dịp cuối năm, chị thường được gọi đến để ngâm thơ chúc Tết của Chủ tịch và phát luôn trên đài. Tới dự có cụ Hồ và mấy ông trong Bộ Chính trị. Khi ngâm thơ chúc Tết, chị để ý thấy ông Hồ có vẻ không quan tâm lắm. Ngâm xong ông thường bảo chị chuyển ngay sang ngâm Kiều. Tôi hỏi, thường chị ngâm đoạn Kiều nào. Chị nói, thường Bác bảo ngâm đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích. Đây là đoạn Kiều nhớ nhà, nhớ người yêu, nhớ quê. Một đoạn thơ buồn.<br /><br />* *<br />*<br /><br />Chung quanh Hồ Chí Minh, đến nay vẫn còn rất nhiều điều bí ẩn không biết đến bao giờ mới được làm sáng tỏ.<br /><br />- Chẳng hạn, chuyện vợ con thế nào? Trung Quốc đã công bố Hồ Chí Minh kết hôn với Tăng Tuyết Minh. Rồi chuyện cô Hà Thị Xuân người dân tộc Tày và các con (Trung và Trinh gì đó). Ông Trần Độ cho biết, vì cô Xuân cứ đòi chính thức hoá, người ta bèn giao cho Trần Quốc Hoàn thủ tiêu cả ba chị em.<br /><br />Chuyện này nhiều người biết. Có người đã viết ra như Vũ Thư Hiên trong cuốn Đêm giữa ban ngày. Riêng tôi được biết do giáo sư Ngô Thúc Lanh được ông Văn Tân kể cho nghe và truyền đạt lại, hai là do một giáo sư dạy Sử ở Đại học Sư phạm Hà Nội, ba là Dương Thu Hương, bốn là ông Trần Độ. Nhưng gần đây có người điều tra ra vụ việc này rất tỉ mỉ, rõ ràng, và công bố cụ thể trên internet: cô Xuân bị thủ tiêu vì hai lý do: một là cô đòi chính thức hoá: điều này phải do Đảng quyết định, mà Đảng thì không thể chấp nhận. Hai là cô bị Trần Quốc Hoàn hãm hiếp nhiều lần. Hoàn tuy đã đe doạ cô, nhưng vẫn sợ bị cô tố cáo. Hắn sai Tạ Quang Chiến đập chết, rồi ban đêm, đặt xác cô ở quãng đường từ Nhật Tân đi Chèm, bố trí một xe ô tô cán lên, tạo ra một vụ tai nạn giao thông giả. Còn ba chị em cô Xuân là ba chị em họ. Một cô tên Nguyệt, một cô tên Vàng. Hai cô này cũng bị thủ tiêu vì đều biết chuyện. Nguyệt mất tích, không rõ bị thủ tiêu ở đâu. Còn cô Vàng thì bị đập chết và quăng xác xuống sông Bằng Giang, Cao Bằng.<br /><br />Theo Tô Hoài, có một hồi người ta định lấy vợ cho cụ Hồ. Một số cô gái đến cho ông chọn. Ông không chọn ai vì thấy đàn bà mà chẳng ý tứ gì, cứ phơi quần, slip… rất vô ý. Có một cô người Huế, ông Hồ thích. Nhưng cô này hói đầu, ông cũng không lấy. Ông nói, nếu có một cô công chúa nước nào thì lấy – lấy vì mục đích chính trị – chắc ông nói cho vui.<br /><br />Tô Hoài cũng cho biết, Phạm Văn Khoa thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Tầu, có lần cùng đi với Hồ Chí Minh sang Trung Quốc (đi xe lửa). Một buổi sáng, Khoa thấy ông Hồ ở toilet ra, cầm slip vừa giặt, nói: “Không có vợ, khổ thế!”<br /><br />- Còn chuyện xuất dương của Hồ Chí Minh? Có phải lần đầu tiên ra nước ngoài là đi Pháp từ cảng Nhà Rồng?<br /><br />Anh Nguyễn Nguyên (tức Nguyễn Ngọc Lương), một cán bộ tình báo cao cấp của ta, cho tôi biết, Nguyễn Tất Thành lần đầu ra nước ngoài là sang Trung Quốc theo đường dây của Phan Bội Châu. Tất Thành đóng vai một người bán nước mắm, từ Nghệ An ra – giao liên là cô Chu Bích Viêm, tức bà Cả Chính (Nguyễn Nguyên đã gặp bà Cả Chính). Cơ sở cách mạng của Phan Bội Châu ở Hải Phòng lúc bấy giờ là hai cô Nhung và Sâm. Còn cơ sở ở Móng Cái là hai cô con gái ông Ký nhà đoan tên là Yến và Nhạn.<br /><br />Bà Cả Chính đã từng đưa Nguyễn Tất Thành qua Hải Phòng, Móng Cái, sang Trung Quốc gặp Lý Đông A ở Liễu Châu.<br /><br />Hồi ấy, ở Việt Nam chưa có phong trào cộng sản.<br /><br />Sau này, cụ Nguyễn Sinh Sắc mới nhờ cụ Phan Chu Trinh bảo lãnh cho Nguyễn Tất Thành đi Pháp.<br /><br />- Còn chuyện đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh?<br /><br />Theo Hà Huy Giáp, người đầu tiên phê phán Nguyễn ái Quốc có khuynh hướng dân tộc chủ nghĩa là Trần Phú. Ông Đào Phan cung cấp cho tôi một tài liệu: khi thành lập đảng Cộng sản Việt Nam ở Hồng Kông, Nguyễn ái Quốc có đưa ra một văn bản gọi là chính cương vắn tắt, phân tích tình hình giai cấp sát với thực tế Việt Nam, nhất là về giai cấp địa chủ (chế độ công điền khiến địa chủ không phát triển được, vì thế địa chủ ở Việt Nam có thể phân hoá được. Staline bèn phái Trần Phú về nước, vất chính cương của Nguyễn ái Quốc đi, thay bằng luận cương Trần Phú đã được đóng dấu ở Mạc Tư Khoa và đặt tên đảng là Đảng Cộng sản Đông Dương. Staline còn chủ trương vô hiệu hoá Nguyễn ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam.<br /><br />Xem chừng Hồ Chí Minh thích tam dân chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên hơn. ông từng dịch cuốn Tam dân chủ nghĩa hồi bị giam ở nhà tù Quảng Tây, Trung Quốc. Và “Độc lập – Tự do – Hạnh phúc” chính là khẩu hiệu cách mạng của Tôn Trung Sơn.<br /><br />Lại có chuyện này: Nguyễn Hữu Đang có lần nói với Hoàng Ngọc Hiến:<br /><br />Sau cách mạng tháng Tám, Hồ Chí Minh có nói với Đang: Bảo Đại nó thoái vị sớm quá! ý ông muốn Bảo Đại cứ tiếp tục làm vua để có thể thành lập ở Việt Nam chính thể quân chủ lập hiến mà ông cho là thích hợp hơn với nước mình. Sau khởi nghĩa tháng Tám, ông ở chiến khu về muộn, lúc đó phái đoàn Trần Huy Liệu, Huy Cận đã lên đường vào Huế nhận ấn kiếm của Bảo Đại. Ông muốn cho người đuổi theo để gọi trở lại, nhưng không kịp. Anh Phạm Tuyên cho biết, ông cũng rất tiếc Phạm Quỳnh đã bị Việt Minh ở Huế thủ tiêu. Chuyện lỡ rồi, ông chỉ còn biết mời mấy người con của Phạm Quỳnh ra gặp để an ủi (ông gặp hai bà con gái của Phạm Quỳnh). Hồi mới sang Pháp, Nguyễn Tất Thành đã từng gặp Phạm Quỳnh (cùng với Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường). Chắc ông đã hiểu Phạm Quỳnh không phải người bán nước.<br /><br />Ngoài ra, từ hồi dự hội nghị Fontainebleau ở Paris (1946), Hồ Chí Minh đã muốn liên hệ với Mỹ và sau này muốn thương lượng hoà bình với chính quyền Sài Gòn.<br /><br />- Một bí ẩn nữa là vì sao Hồ Chí Minh đoán rất chính xác mấy thời điểm lịch sử quan trọng: năm 1945, chấm dứt đại chiến thế giới thứ hai và cách mạng tháng Tám thành công; năm 1954 chiến thắng giặc Pháp (đoán từ năm 1950); năm 1975 chiến thắng giặc Mỹ (đoán năm 1960).<br /><br />Theo Trần Quốc Vượng, vì ông có tử vi.<br /><br />Năm 1943, khi Hồ Chí Minh viết câu kết bài Diễn ca lịch sử nước ta: “Bốn nhăm sự nghiệp hoàn thành“, thì ở hội nghị Téhéran, thủ lĩnh ba siêu cường trong phe Đồng Minh là Staline, Churchill, Roosevelt đoán, chiến tranh chấm dứt năm1946.<br /><br />Không lẽ gì Hồ Chí Minh ở Việt Bắc, với một cái đài bán dẫn rất thô sơ, lại đoán thời cuộc thế giới chính xác hơn ba tay trực tiếp chỉ đạo cuộc chiến tranh chống phát xít với những thông tin phong phú, cập nhật và những dữ kiện đầy đủ. Mà ba tay này đâu có dốt nát gì!<br /><br />Trần Quốc Vượng kết luận: Cụ Hồ có tử vi.<br /><br />Vượng cũng là tay rất sành sỏi tử vi. Anh nói, ở thư viện quốc gia có cuốn Tử vi phú đoán của Lê Quý Đôn đã dịch. Vượng đến mượn. Cô thủ thư nói sách không còn. Bố Trần Quốc Vượng có quen cụ Xước là giám đốc thư viện, Vượng đến hỏi, cụ Xước nói: Ông Hoàng Minh Giám đến lấy cho Cụ Hồ đọc rồi. Sách đang ở chỗ Cụ Hồ.<br /><br />Anh Từ Sơn có tặng tôi tập Di bút của Hoài Thanh (bản đánh máy lúc chưa xuất bản thành sách). Trong đó có đoạn viết: “Năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, anh Tố Hữu có dịp được gặp Bác. Anh thưa với Bác:<br /><br />- Thưa cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng sợ hơn?<br /><br />- Tây cũng không đáng sợ. Tàu cũng không đáng sợ. Đáng sợ nhất là các chú - Ông Hồ trả lời như vậy.<br /><br />Ngẫm ra đây cũng là một tiên đoán thiên tài của Hồ Chí Minh. Ngày nay Pháp, Mỹ đều rút hết rồi. Đất nước nếu còn khốn khổ thì đúng là do “các chú”.<br /><br />- Một câu hỏi khác đặt ra: Cụ Hồ có ý thức tự thần thánh hoá mình không? Đã nói ông Hồ không thích làm ông thánh, nay lại nói ông có ý thức thần thánh hoá? Tôi cho hai chuyện có chỗ khác nhau. Vì yêu cầu chính trị, có khi phải dùng mưu mẹo, có khi phải diễn kịch nữa – Về mặt này, ông Hồ cũng khá “siêu” đấy. Dân tộc Việt Nam là dân tộc nông dân nên có tâm lý trọng người già và sùng bái thần thánh, chứ không tin ở người trẻ, người thường. Cho nên ông Hồ, năm mươi tuổi đã để râu dài và xưng là già Hồ. Và cũng không phản ứng gì khi người ta gọi là cha già dân tộc. Theo Trần Quốc Vượng, hồi kháng chiến chống Pháp, Trung ương có giao cho ông Trần Huy Liệu bình tán những câu sấm Trạng Trình ứng vào Cụ Hồ rồi cho truyền đi để tạo thành dư luận quần chúng. Đó là chủ trương của Hồ Chí Minh hay chỉ là “sáng kiến” của Đảng ngoài ý kiến của ông Hồ? Nhưng ông Trần Dân Tiên viết Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ Tịch, có chỗ ví cụ Hồ như con rồng ẩn hiện trong mây. Mà Trần Dân Tiên chính là ông Hồ chứ ai!<br /><br />- Như đã nói, vì lí do chính trị, Hồ Chí Minh nhiều khi phải diễn kịch, sống cứ phải “diễn” như thế, kể cũng khổ. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Diễn” tức là bị tước đi của mình quyền sống tự do chứ còn gì nữa! Liệu đã ai hiểu cho ông cụ nỗi khổ này?<br /><br />Những trò diễn của Hồ Chí Minh nói chung có tác dụng chính trị rất tốt đối với tầng lớp bình dân. Nhưng đối với trí thức, có khi lại phản tác dụng. Năm 1946, Hồ Chí Minh ở hội nghị Fontainebleau về nước có Trần Hữu Tước và một kỹ sư tên là Quang theo về. Trên tàu, Cụ Hồ diễn trò nhẩy son lá son với các thuỷ thủ. Quang thấy thế lấy làm khó chịu, mất tin tưởng. Ông ta bỏ không theo Hồ Chí Minh nữa. Theo Tô Hoài, ông ta sau này về sống ở Nha Trang. Nhưng Hoàng Ngọc Hiến lại đưa ra một thông tin khác: Trần Hữu Tước sau này có gặp Quang rửa xe máy ở Sài Gòn.<br /><br />- Cuối cùng là ngày sinh và ngày mất của Hồ Chí Minh. Ngày sinh cũng do ông tự đặt ra, ai cũng biết rồi. Còn ngày mất? Đúng cái ngày ông đọc Tuyên ngôn độc lập (2/9)<br /><br />Theo Hoàng Ngọc Hiến, ông Hồ chủ động chết vào cái ngày lịch sử ấy. Ông ấy đáo để lắm đấy! Một người quyết lấy lại họ Hồ là dòng máu thật của mình (Hồ Sĩ Tạo) thì cũng có thể quyết chết vào đúng ngày sinh của cả nước, ngày mà ông đọc Tuyên ngôn độc lập.<br /><br />- Nhưng chủ động chết làm sao được khi người ta luôn chầu chực quanh mình – Tôi cãi lại Hiến.<br /><br />- Thì cũng có lúc người ta ra ngoài chứ. Lúc ấy chỉ cần dứt hết những dây dợ của cái ống thở ôxy là chết luôn chứ sao! – Hiến khẳng định thế. Một phán đoán không phải là không có lý!<br /> <br /><br />Hà Nội, ngày 6.7.2006Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0tag:blogger.com,1999:blog-7842160730241713691.post-63434374715568045242009-07-31T00:29:00.000-07:002009-07-31T00:32:12.309-07:00No21:Từ lăng Mao đến lăng “Bác”Cuối cùng thì Lenin đã chết vào ngày 21/1/1924 ở thành phố Gorky. Hai ngày sau quan tài được chở về Moscow và được để ở điện Kremlin, để trong lồng kính, mặc dầu có sự phản đối của bà goá phụ Lenin. Nadezhda Kruskaya thời ấy đã lợi dụng việc xây lăng này cho quyền lợi của đảng ông. Rồi đến lượt Stalin chết. Lại ướp xác. Lại để cạnh mộ Lenin. Xác ướp trưng bày chẳng được bao lâu thì đến năm1961, Khrushchev, quyết định dời lồng kính của Stalin mang chôn dọc bức tường điện Kremlin như các nhân vật chính trị khác.<br /><br />Đây có thể nói là một cuộc thanh trừng nội bộ, mà đặc biệt là thanh trừng một xác chết.<br /><br />Đến lượt ông Mao Trạch Đông cũng đã nối gót Staline? Cũng muốn chôn sống mình trong lồng kính để mọi người có dịp chiêm ngưỡng?<br /><br />Tất cả quý vị ấy đều qua mặt các xác ướp Ai Cập vì nay là xác ướp với khuôn mặt như thể còn sống?<br /><br />Đến lượt ông Hồ Chí Minh chỉ còn là bản sao các lăng tẩm trên từ cấu trúc, đến viên đá, những hàng cột, những tấm đá cẩm thạch mầu đen và mầu đỏ, (in red plum marble) đến hình dáng uy nghiêm, đồ sộ, lạnh lùng đến các kỹ thuật ướp xác?<br /><br />Và cả tòa kiến trúc đó có mình ông lặng lẽ nằm một mình. Khi sống ông ở nhà tranh vách đất và ở với mọi người? Nay ông ở một mình, hỏi ông có buồn không ông?<br /><br />Cứ giả dụ rằng không có xác ướp Lenin thì cũng không có xác ướp Hồ Chí Minh và cũng không có quảng trường Ba Đình? Và nếu lãnh đạo đảng tôn trọng chúc thư của ông Hồ muốn hỏa thiêu thì cái quần thể kiến trúc đó đã chẳng bao giờ được xây cất?<br /><br />Khi vào đó, quý vị được khuyến cáo phải im lặng, phải ăn mặc chỉnh tề, phải có thái độ thành kính, cẩn trọng, không được xỏ tay túi quần, không được chụp hình. Xem hình tại chỗ thì được, nhưng tuyệt đối không được chụp hình? Lăng được mở các ngày thứ ba, thứ năm và cuối tuần, từ 8-11 giờ.<br /><br />Và thường sẽ đóng cửa tháng 10 đến tháng 11 để đưa xác sang Moscow tu bổ và tân trang lại.<br /><br />Thật ra ai cũng biết chết là hết. Nhưng hết là hết với người chết, kẻ chôn dưới lòng đất, dưới mộ. Nhưng không hết đối với người còn sống. Vì thế, đối với loại người chết như chủ tịch Mao hay ông Hồ, họ vẫn còn đó. 100 năm sau, hơn thế nữa, những năm sau nữa, người chết vẫn là đối tượng cho những niềm thán phục, quý mến hay bình phẩm, khen chê.<br /><br />Câu chuyện kể trên chính ra được bắt đầu như thế này. Đài BBC Luân Đôn có đăng tải một lá thư trên tờ Khai Phong ở Hồng Kông kêu gọi nhà cầm quyền Trung Quốc đem thi hài của ông Mao ra khỏi lăng của ông ta ra khỏi Bắc Kinh. Lá thư rất là nghiêm chỉnh. Bởi vì được ký bởi một số nhà văn, người cầm bút và phê bình báo chí, trong đó có những người hiện đang sống tại Trung Hoa đỏ. Họ đề nghị đưa xác ông Mao về chôn tại quê ông ở tỉnh Hồ Nam.<br /><br />Lý do họ đưa ra là đưa ông Mao ra khỏi lăng là bước đầu hòa hợp, hòa giải dân tộc và cải tổ chính trị.Đài BBC đã phỏng vấn một trong những tác giả ký trong lá thư là ông Trần Khuê Đức (Chen Kuide), tốt nghiệp tiến sĩ triết, giảng viên Đại học Fudan, Shanghai, Trung Quốc. Theo ông Đức thì việc để thi hài Mao tại quảng trường Thiên An Môn là một trở ngại cho Trung Quốc hoà nhập vào cộng đồng Quốc tế vì Mao đã phạm nhiều lỗi lầm:<br /><br /> <br /><br />• Thứ nhất, chiến dịch thanh trừng năm 1957, có 530.000 người Trung Quốc đã bị đàn áp, thanh trừng, bị đưa vào trại lao động.<br />• Thứ hai, trong cuộc đại nhảy vọt năm 1958, khi người nông dân bị đưa vào hợp tác xã thì có đến 30 triệu người Trung Hoa bị chết đói.<br />• Thứ ba, tệ hơn nữa, cuộc cách mạng văn hóa đã trở thành một bi kịch lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại.<br /><br />Cuối cùng, đài BBC đã hỏi một câu so sánh: ông nghĩ gì về những lăng tương tự, chẳng hạn lăng ông Hồ Chí Minh ở Việt Nam?<br /><br />Tôi phản đối mọi hình thức xử dụng thi hài người đã mất để làm thành biểu tượng tôn thờ. Hình thức sùng bái này diễn ra hầu như riêng ở các nước cộng sản như Liên Xô, Việt Nam và Bắc Hàn. Và riêng cá nhân, thì tôi chống lại việc biến thi hài người chết thành biểu tượng sùng bái như vậy, dù ở Việt Nam hay tại đâu đi nữa.<br /><br />Sau khi loan tin này thì đài nhận được 6 lá thư, hầu hết là giới trẻ VN hiện sống trong nước hay ngoài nước đồng ý di chuyển xác ướp ông Hồ Chí Minh về quê ông ở Nghệ An. Lý do họ đưa ra thì nhiều, tựu chung là:<br /><br />• Cả ông Mao lẫn ông Hồ đều không để di chúc phải xây lăng và để xác ướp như vậy.<br />• Tốn kém quá trong khi người dân nghèo khổ đến cùng cực. Ông Hồ nằm đó hẳn không yên? Tốt hơn hết là nên dùng tiền cho cái lăng này để xây toà nhà Quốc Hội. Hay bất cứ cái gì như cung văn hoá. Bảo tàng viện hay cùng lắm làm nhà tế bần, nhà giữ trẻ hay gì gì đó.<br />• Xem lại lịch sử các vị anh hùng dân tộc như Lê Lợi, Hai Bà Trưng đời đời người dân vẫn ghi công đức của họ mà đâu cần lăng tẩm đồ sộ giữa lòng Thủ đô Hà Nội?<br />• Vấn đề chính chính là hòa giải, xóa bỏ sự đố kỵ và hận oán vẫn kéo dài nhiều năm nay.<br />• Thực tế, có người như Quốc Bảo ở Alaska thẳng thừng hơn: Đây là thời đại mới, thế kỷ mới. Let the past go. Please.<br />• Dư luận chung thì như vậy. Nhất là giới trẻ, họ không muốn cứ giữ một xác người chết ở giữa thủ đô giống như nhà lúc nào cũng có tang, vận nước không phát được (Cao Phúc, TP. Hồ chí Minh).<br /><br />Đấy là dư luận, phần tôi xin đóng góp thêm bằng những luận cứ, những cái nhìn từ nhiều góc độ để một lần nữa đưa vấn đền này ra trước công luận.<br /><br />Thật ra, cái ý tưởng di dời lăng ông Hồ khỏi Ba Đình không phải mới mẻ gì. Chuyện đã đến lúc phải nói tới và đã có người dám nói rồi. Trước đây, nhà nghiên cứu Trần Khuê và bà Nguyễn Thị Thanh Xuân đã có cái can đảm đưa vấn đề này ra rồi. Đưa ra là một chuyện, chẳng ai dám đáp ứng. Phía chính quyền cũng như phía người dân đều có thái độ theo cái kiểu có miệng thì nắp, sợ cắp thì đậy. Phần ông Trần Khuê, không bị bắt là may rồi.<br />1. Về nhân vật Hồ chí Minh.<br /><br />Đây là một nhân vật lịch sử của Việt Nam (VN) thế kỷ thứ 20 mà tầm vóc lịch sử vượt ra khuôn khổ của một nước. Từ bất cứ phía nào, từ góc độ nhìn của người chống hay tôn sùng đều phải nhận với nhau như thế. Hình ảnh ông Hồ đi liền với Cộng Sản Quốc Tế và Cộng Sản Việt Nam cũng như công cuộc chống Pháp kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ. Sự nghiệp chính trị của ông từ năm 1945 đến 1969 dừng lại ở đó. Ấy là chưa kể đến việc năm 1950, ông rước Nga Tầu vào giải quyết chiến trường VN dựa vào sự chi viện quân sự, kinh tế, tài chánh và cả tư tưởng ý thức hệ của họ nữa. Thành tích đã có vết nám. Không có vết nám này thì đất nước đã khác. Những chuyện cải cách ruộng đất với đấu tố, bản án “Nhân Văn Giai Phẩm” với nạn nhân là 30 nhà văn, nhà trí thức bị sỉ nhục chỉ cần một lời xin lỗi đã kể như đủ. Nói đến Nhân Văn Giai Phẩm mà chỉ kể tên 30 nhà văn là nạn nhân của cuộc thanh trừng văn hóa ấy là hiểu hẹp, hiểu cạn. Phần đông thiên hạ đều chỉ chúi mũi thương hại cho 30 người ấy. Không, phải thương cho tất cả dân chúng miền Bắc: Thương vì bị bịt mắt đui mù, thương vì chỉ còn một thứ văn học phải đạo. Rồi thương cho thế hệ trẻ. Chúng không còn cái đầu của chúng nó nữa. Cái đầu biết suy tư, biết phân biệt phải trái, biết phán đoán, biện bạch. Hèn gì mà cái câu nói bất hủ của ông: “Không có gì quý hơn độc lập tự do” vẫn là là ước mơ của nhiều người hay là lời mỉa mai thâm độc nhất cũng của nhiều người.<br /><br />Những người viết về ông thì nhiều lắm. Gần đây nhất có William J. Duiker, với cuốn Hồ Chí Minh – a life, sách dầy đến 696 trang, rồi Pierre Brocheux với cuốn Hồ Chí Minh, dầy 236 trang. Phía Việt Nam thì có Hồ chí Minh toàn tập, 12 cuốn, do nhà xuất bản chính trị Quốc Gia ở Hà Nội xuất bản. Chưa kể đến nhiều bài báo có giá trị của Lữ Phương với: Huyền thoại Hồ chí Minh. Ông Nguyễn Minh Cần, một người đã bỏ đảng và cư trú chính trị ở Nga với bài: Thêm vài mẩu chuyện về cuộc đời của Hồ chí Minh và ông Bùi Tín với bài: Về nhân vật Hồ chí Minh.<br /><br />Các bài viết trên đều rất hay, rất có giá trị, rất súc tích, rất tài liệu, rất biện bạch lý giải giúp mọi người nhìn rõ chân diện ông Hồ và còn nhiều cái rất nữa. Nhưng người ta vẫn có thể quên hết. Đọc rồi bỏ. Quên mà không sao.<br /><br />Nhưng không thể quên được những bài viết của giới trẻ như bài: Vài suy nghĩ về Bác Hồ, ký tên: Sinh viên du học, hay: Hãy cho thế hệ trẻ chúng tôi biết sự thật, ký tên sinh viên du học. Tiếp đến bài: Viết về chủ tịch Hồ chí Minh, của Phương Nam, Australia. Hoặc một bài viết chui ở trong nước đã lâu đời: Tiếng nói chân thật của giới trẻ Việt Nam, số 5, tháng 8, 1999 nhằm tố cáo các vị lãnh đạo tham nhũng. Hay vào tháng 10, có phóng sự truyền hình Viet Nam – Daring to speak out của truyền hình Australian Broadcasting Corporation (ABC) do phóng viên Evan Williams thực hiện với sự lên tiếng của nhà văn Dương Thu Hương, chị Vũ Thúy Hà (vợ bác sĩ Phạm Hồng Sơn) và một người bí mật, mặt bị làm nhòa đi. Trong mục Tư duy Thế kỷ, phóng viên Hồng Nga thảo luận về những suy nghĩ của giới trẻ với Nguyễn Bích Hằng, một cựu sinh viên đã qua Úc từ lúc 6 tuổi. Hay chị Ngô Ngọc Anh, 23 tuổi, sinh viên năm cuối của trường đại học ngoại thương Hà Nội và là đoàn viên đoàn thanh niên Cộng Sản. Và nhất là bài: Linh Nghiệm của một nhà văn trẻ, anh Trần Huy Quang, đăng trên tờ Văn Nghệ. Rất tiếc, bài báo đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản tịch thu.<br /><br />Những bài viết của giới trẻ này nó là chứng chỉ thời đại cho thấy bước rẽ, bước ngoặt không thể khác được. Tầm lý luận, tầm nhận thức ở cái độ cao nhất, khả tín nhất, độ thuyết phục của họ làm ta bàng hoàng, choáng váng vì đã tước bỏ đi tất cả những lớp vỏ bọc ngoài của tuyên truyền, của huyễn hoặc quá độ, của gian dối lừa lọc.<br /><br />Họ viết với độ trong sáng, độ thành thực ngây ngô mà diễn giải ra ngôn ngữ thông tục là có sao nói vậy. Chính ở đó bàng bạc chân lý, bàng bạc lẽ phải đánh đổ mọi lý luận đanh thép hoành tráng, cấu trúc tư tưởng đồ sộ.<br /><br />Đã đến lúc, hãy để cho tâm trí được thảnh thơi khỏi những luồng gió chướng của tuyên truyền phách lối về tệ nạn tôn sùng cá nhân biến những người như ông Hồ thành những ông thánh sống. Thời đại này, thế kỷ này là thế kỷ của những người trẻ do khả năng thông tin vô biên của tin học giúp giải mã, phơi bầy sự thật ở mức độ sát nhất, gần nhất của sự thật.<br /><br />Đọc họ mới hiểu được những ước mơ làm người Việt Nam tự do, có hoà bình, có cơm no áo ấm, có dân chủ bình đẳng được trả bằng máu, nước mắt. Những cơ cực khốn khổ bỗng chốc trở thành cơn ác mộng kéo dài hơn nửa thế kỷ. Hoài bão con người được trang bị bằng những tư tưởng thời đại trong sáng và đẹp đẽ nhất trong sách vở, bỗng dưng trở thành tồi tệ trong thực tại. Câu hỏi bắt đầu và câu hỏi chót hết là con người đã được gì sau những năm tháng đó? Hãy để người trẻ, thế hệ bây giờ lên tiếng và tìm câu trả lời cho chính họ và tương lai của họ. Những tô hồng lỗi nhịp, lạc điệu cuộc sống hay những lời nguyền rủa về những điều đáng lẽ không cần được nói tới đều nên tắt tiếng.<br /><br />Vì tiếng nói thời đại là tiếng nói của người trẻ, vượt khỏi những lằn ranh đối nghịch ác nghiệt. Chúng ta đã nghe quá nhiều, nhưng lại nghe chưa đủ lời nói chân thật. Chúng ta đã sống quá nhiều, bầm vập đủ thứ, nhưng vẫn chưa tìm ra được lối thoát cho chính mình.<br /><br />Quá khứ vẫn day dứt, thực tại vẫn quay quắt, tương lai vẫn mù mịt.<br /><br />Thế hệ Hồ chí Minh đã hết, một thế hệ sống trong lừa phỉnh, dối gạt nếu còn lại chỉ là những thanh niên, thiếu nữ cả đời hoang phí tuổi thanh xuân, nay chỉ còn lại như những tàn dư phế loại.<br />2. Thực chứng của người trẻ.<br /><br />Có một điều người viết vẫn tự đặt ra cho mình là: Có nên cứ tiếp tục huyễn hoặc về nhân vật Hồ Chí Minh không? Gần đây nhất toàn bộ guồng máy chính quyền , đảng và nhà nước trước dịp tết vẫn vào thăm bác như một thông lệ không có không được. Tờ Sàigòn Giải Phóng vẫn nhạt nhẽo trích đăng lại bài: Ngày xuân, kể chuyện bác Hồ: Bác Hồ thích đi bộ với đôi dép cao su huyền thoại. Trong khi thực tế thì ngay từ thời Lê Duẩn, Lê Đức Thọ thì Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đã không còn có trong mắt của đám Lê Duẩn, Thọ nữa. Như lời ông Lê Xuân Tá viết khát vọng của Lê Duẩn là phải làm một cái gì hơn cả Điện Biên Phủ, để vượt trội cả Hồ chí Minh đến Võ nguyên Giáp. Khát vọng đó được Lê Đức Thọ đồng tình. Lập trường chủ chiến có nguồn gốc sâu xa như vậy (Trích Chia tay Ý thức hệ của Hà Sĩ Phu, phần 4). Vậy mà lúc ông Hồ chết, họ vẫn trơ trẽn xây dựng lăng bác, bất kể lời di chúc, bất kể gây tổn phí cho dân. Ông Võ Nguyên Giáp khi vào thăm miền Nam cũng nhắn nhủ cán bộ học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng đó là gì hỏi ra thì từ trên xuống dưới mấy ai đã nắm được?<br /><br />Vấn đề là nó có đâu mà nắm?<br /><br />Nắm được đã mấy ai tin tưởng mang ra thực hành. Mà biết để làm gì cơ chứ trong thời đại tin học này. Phải chăng đó là tư tưởng của Mác xít mà chính bản thân các người lãnh đạo vị tất đã đọc, và vị tất đã hiểu. Phải chăng, đó là tư tưởng trong cuốn Những kinh nghiệm tiến nhảy vọt của Trung Quốc ký tên Trần Lực, bí danh của ông Hồ trong đó ca ngợi những sáng tạo nấu thép trong sân nhà nông dân và đuổi chim bằng hò hét. (Trích lại trong: Về nhân vật Hồ Chí Minh của Bùi Tín).<br /><br />Đối với giới trẻ, qua rất nhiều phát biểu của họ về ông Hồ và chế độ cho thấy họ đã dứt khoát chối từ, quay lưng lại quá khứ. Hãy lắng nghe những tiếng nói trong suốt, những ưu tư của họ phát ra từ đáy lòng họ.<br /><br />Cũng như bao đứa trẻ khác, tôi đi học cấp 1, cấp 2 cấp 3, rồi đến đại học, rồi đi làm.. từ bé đến giờ, tôi luôn luôn được tuyên truyền về hình ảnh một con người siêu phàm cả về tài năng và đạo đức mà tôi chưa từng được gặp mặt. Đơn giản bởi vì người đó đã chết trước khi tôi ra đời.<br /><br />Từ sách vở, ca nhạc cho đến đài báo, rồi sau này cho đến truyền hình đều không ngừng, không nghỉ đưa vào óc tôi những câu chuyện, lời ca và hình ảnh về công việc, cuộc sống, đức tính. Nói chung là đủ mọi thứ của một con nguời. Bác Hồ.<br /><br />Bài hát đầu tiên tôi thuộc khi tôi mới 3 tuổi, mà tôi không thể nhớ nổi bao nhiêu lần, tôi đã hát Như có bác Hồ trong ngày vui đại thắng… Khi đi học ở trường cấp 2, tôi đã phải học mất bao đêm học cho bằng thuộc những bài thơ dài dằng dặc về bác Hồ. Không hiểu thế nào mà đến bây giờ tôi chỉ nhớ được bài thơ nhái theo chứ không thể nào nhớ được bài thơ gốc. Đêm nay bác không ngủ, vì có quả đu đủ… chắc chắn các bạn đều thuộc cả. Tôi không còn phải kể ra đây nữa làm gì.<br /><br />Tôi phải kể ra dài dòng như vậy là để cho các bạn biết là tôi đã qua một quá trình bị tuyên truyền nhồi sọ nặng nề và lâu dài như thế nào? Y thế mà không hiểu tại sao trong suốt hơn 20 năm của cuộc đời tôi chưa từng bao giờ có chút thiện cảm chứ chưa nói đến chuyện tôn Bác Hồ lên làm thần tượng của mình bao giờ.<br /><br />Một lần, tôi được xem một đám đông có vẻ đang rất đau đớn và thương tiếc vì Bác Hồ đã ra đi đột ngột trong khi sự nghiệp chống Mỹ cứu nước còn dang dở. Tôi hỏi mẹ tôi: Lúc đó mẹ ở đấy không. Mẹ có khóc không. Có con ạ. Tại sao mẹ lại khóc, mẹ thương Bác Hồ quá ạ? Không con ạ, mẹ thấy xung quanh ai cũng khóc nên mẹ cũng khóc thôi. Tối hôm trước đám tang, ông tổ trưởng dân phố đến từng nhà phát khăn tang và dặn mọi người phải có mặt đầy đủ và đeo khăn tang trong ngày hôm sau. Nhưng mẹ phải đi chợ bán rau cơ mà? Thì mẹ phải nghỉ chợ một ngày. À ra thế, cái mình nhìn thấy chưa chắc đã hoàn toàn như thế.<br /><br />Tôi đã dồn hết tâm trí vào rồi mà tôi vẫn không hiểu được tư tưởng Hồ chí Minh là cái quái gì? Tại sao cái tư tưởng của một con người đã có lần tự nhận rằng mình chẳng có tư tưởng gì cả lại có thể linh nghiệm cho một đất nước nghèo khổ và lạc hậu nhất thế giới?<br /><br />Không. Như thế đã quá đủ rồi. Hãy để chúng tôi được nghe cái chúng tôi muốn nghe, thấy cái chúng tôi muốn thấy, làm cái chúng tôi muốn làm. Đừng tiếp tục bắt lũ trẻ tội nghiệp chúng tôi ngồi im lặng mà nghe người ta chỉ bảo, phải như thế này, không được như thế kia.<br /><br />Không, tôi sẽ không bao giờ giống mẹ tôi, bật khóc chỉ vì thấy mọi người xung quanh đều khóc. Không, tôi sẽ không bao giờ gật, chỉ vì mọi người đều gật.<br /><br />Không, tôi sẽ không giống bố tôi, giả bộ ngoan ngoãn để được yên thân. Tôi sẽ chỉ là tôi thôi.<br /><br />Không, tôi sẽ không phải là tôi của ngày hôm nay. Tôi sẽ là tôi của ngày mai, bước ra khỏi đám đông, đạp đổ mọi thần tượng giả hình, xây tượng đài mới của chính mình – Tự do và trí thức.<br /><br />Tôi xin trích dẫn cảm tưởng của một cậu bé 5 tuổi đáng cho chúng ta suy nghĩ hơn hết. Nhiều lúc trẻ 5 tuổi lại có thể l thầy dạy cho tất cả chúng ta? Và đây là cái cảm giác làm tôi cảm thấy xúc động hơn cả những bi bo tranh biện, bác học. Thôi thì xin cùng đọc:<br /><br /> Hồi tôi được 5 tuổi, lớp mẫu giáo của tôi được vào lăng viếng bác. Chúng tôi đứa nọ túm áo đứa kia lần lượt bước qua cái cửa có hai người lính cảnh vệ bồng súng đứng hai bên. Vừa bước vào bên trong, tôi thấy lạnh toát người, vì khí lạnh tỏa ra từ các máy lạnh trong lăng. Sau khi ra khỏi lăng, bọn tôi mỗi đứa được phát không một chiếc bánh mì vừa to, vừa thơm. Lúc đó cả nhà tôi đang phải ăn gạo mốc có đầy mọt, cho nên chiếc bánh mì đó thực sự là một đặc sản. Tôi ăn ngay nửa chiếc, nửa còn lại, tôi đem về cho thằng em gầy còm suy dinh dưỡng ở nhà. Kỷ niệm về lần duy nhất trong dời vào lăng viếng Bác thật đặc biệt nên tôi không bao giờ quên.<br /><br />3. Vài lời kết về lăng Hồ Chí Minh.<br /><br />Lăng ông Hồ có cần phải di dời hay không di dời chưa hẳn đã là điều cần, nhưng chưa hẳn đ đến cái Timing phải di dởi. Chưa di dởi cụ thể, nhưng lịnh người đ di dời từ lu rồi, ngay cả các vị lãnh đạo đảng. Vấn đề là lòng dân. Ông nằm đó mà dân không ngó ngàng thì phỏng có ích gì? Ông ở đó như một món hàng cho khách du lịch, một địa điểm mà chưa chắc được nhiều người lui tới như vịnh Hạ Long, cảnh chùa Hương, bãi biển Sầm Sơn? Nếu thật như vậy thì tội cho ông quá. Hãy để cho người đã chết an nghỉ. Đó là điều mà nếu còn sống, được phép nói, ông sẽ nói với nhà nước đương quyền. Bao lâu mà chính quyền còn cần một biểu tượng thì bấy lâu ông Hồ còn nằm đó. Hiện nay, chính quyền vẫn cần một biểu tượng, dù là một biểu tượng có cơ nguy bị xóa nhoà. Có nhiều dấu hiệu cho thấy chủ nghĩa CS khó có cơ may tồn tại. Trung Quốc từ hai năm nay đã đặt ra rồi. Theo nhiều người, thời Võ Văn Kiệt, lúc là thủ tướng chính phủ, ủy viên chính phủ đã tính đòi xóa bỏ Chủ nghĩa Xã hội, bỏ điều 4 hiến pháp, thực hiện dân chủ triệt để?<br /><br />Đó là những thách thức đặt ra cho chính quyền đương đại và là niềm hy vọng của chúng ta. Vấn đề là bao giờ. Chuyện di dời lăng ông Hồ, đem về chôn cất ở Nghệ An lúc đó tự nhiên phải đặt ra. Lúc này kể ra còn quá sớm chăng?<br /><br />Nhưng từ khi tôi về thăm Hà nội thì nảy sinh ra nhiều điều trăn trở. Đất nước mình cần một biểu tượng đến thế sao? Tôi đã đi qua khu Ba Đình mà không dám vào và cũng không muốn vào. Chung quanh những khu ấy và đằng sau là Chùa Một Cột nằm khuất lấp như bị chen lấn đến chỗ như cái cảnh chiếm đất, dành dật? Cái thắc mắc là khu Cổ Thành được khám phá sau này có liên quan gì đến việc xây lăng ông Hồ? Kể ra hai địa điểm cũng gần nhau lắm? Thứ hai, đâu đâu những con đường chung quanh đều là tên các vị lãnh đạo nhà nước Đảng Cộng Sản. Sau này lấy đường đâu ra cho những vị kế tiếp như Trần Đức Lương, Phan Văn Khải hay Nông Đức Mạnh?<br /><br />Không lẽ lịch sử đất nước này chỉ có những vị đó sao?<br /><br />Dù cho miền Nam như thế nào. Tôi không chọn sống chung với những nhân vật lãnh đạo tự nhận mình làm nên lịch sử đất nước này. Nhưng tôi cũng không khỏi ngạc nhiên mà ngày nay rất nhiều người ở Hải ngoại hò hét bôi nhọ, chửi bới nơi mà họ cũng đã cùng chung sống cái thời điểm dung thân đó như tôi. Chửi bới tôn giáo đủ thứ, chửi bới chế độ độc tài đủ thứ, chính trị đủ thứ và chửi bới quân đội và tất cả các sinh hoạt văn học, văn hoá đủ thứ mặc dầu nghe CS vào, họ đã là những người trưóc tiên chạy vắt dò lên cổ chạy ra nước ngoài.<br /><br />Tôi tự hỏi họ ở đâu mà ra? Họ có thuộc loại bọn vô ơn không?<br /><br />Và thắc mắc lớn nhất của tôi chưa lời giải đáp là trong suốt 20 năm đó, không có những bài báo bài bác tôn giáo, mà tự do viết đấy nhé. Nó không bao giờ bị phỉ báng như bây giờ ở Hải ngoại, cho dù trong những tình thế đối đầu ngặt nghèo và bi kịch nhất.<br /><br />Chỉ riêng ông Trần Chung Ngọc, trong 6 năm nay viết bài bác tôn giáo, số lượng trên dưới 100 bài, gấp nhiều lần của tất cả những bài báo tranh cãi về tôn giáo của toàn miền Nam trong 20 năm cộng lại?<br /><br />Viết như thế, chẳng còn chút xíu đồng xu teng nào về cái crédibilité đối với độc giả. Xếp ông vào loại người khủng bố tôn giáo cũng không hẳn là quá đáng. Mình ông đủ làm nhiễm độc tôn giáo cả một cộng đồng kéo theo một số người khác chạy theo. Một trong những người cùng trong nhóm đồng hành với ông nay đã rã ngũ, đã nói với tôi: Ông chửi như thế, ra rả ngày đêm, chỉ lảm mỗi công việc lắp ráp đủ loại tài liệu một chiều, ông làm gì có crédit đối với người đọc. Vậy để ý làm gì?<br /><br />Vẫn nhìn lại đời mình và vẫn cho rằng những năm tháng đẹp nhất trong quãng đời tuổi trẻ của tôi. Phải là miền Nam và không ở đâu khác.<br /><br />Tôi nhớ ơn miền Nam và chẳng thể nào nói khác được. Hay dở gì cũng là miền Nam thân yêu.<br /> <br /><br />23-06-2006Vietnamnew.vnhttp://www.blogger.com/profile/07600205032886964171noreply@blogger.com0